Blog

  • Choi lưới (Madagascar Lace) (Aponogeton madagascariensis)

    Tên gọi khác: Madagascar Lace
    Độ khó: Khó
    Bố trí: Trung cảnh, hậu cảnh
    Ánh sáng: Trung bình
    Nhiệt độ: 15-25 °C
    Độ pH: 5.0-7.5
    Cấu trúc cây: Củ (Bulb)
    Họ: Aponagetonaceae
    Chi: Aponogeton
    Vùng: Châu Phi (Madagascar)
    Chiều cao: 20-50 cm
    Chiều rộng: 25-30 cm
    Tốc độ phát triển: Nhanh
    Mọc trên cạn: Có thể

    Choi lưới

    Aponogeton madagascariensis thường được tìm thấy trong các dòng nước di chuyển trên đảo Madagascar. Lá có lỗ thũng của nó có một không hai, và loài cây này là một thách thức cho người chơi thủy sinh từ những năm 1950. Cây có 2 loại, “henkelianus” và “major” có lá rộng và bông có 2 nhị màu trắng hoặc vàng, có thể tự thụ tinh với một cọ vẽ để tạo hạt giống. “Henkelianus” có nhiều lỗ không đều trên lá, và nhiều loại “major” có lỗ hình chữ nhật đều hơn. Một loại Choi lưới khác trong thương mại thủy sinh là một loài lớn hơn, lá hẹp hơn nhưng có thể dài đến 1 m bao gồm cuống lá. Loài này hoa màu hồng hoặc tím có 5 nhị và không thể tự thụ tinh. Thân cây hoa Aponogeton madagascariensis có thể lên đến 1,5 cm đường kính. Nếu Aponogeton madagascariensis đạt đến kích thước đầy đủ, nó sẽ quá lớn cho các hồ nhỏ hơn 500 lít.

    Tất cả các giống của Aponogeton madagascariensis, thích được trồng trên nền ít chất hữu cơ. Nều giàu chất dinh dưỡng hay được bón phân hoặc than bùn thì cần nên tránh. Điểm chết màu nâu sẫm trên lá cũ hơn lan truyền cho đến khi toàn bộ lá đã chết cho thấy rằng nền quá nhiều dinh dưỡng.  Sự hiện diện của rễ từ các cây khác cũng giúp cây dễ trụ vững hơn.  Nhưng những người bạn đồng hành này không được mọc quá lớn hoặc che choi lưới. Càng nhỏ thì các cây loài Cryptocoryne càng phục vụ cho mục đích này càng tốt. Tốt nhất là phải có các cây đồng hành thành lập trước khi trồng các củ của choi lưới. Lưu ý, các củ không nên được chôn hoàn toàn dưới đất. Cùng với ánh sáng vừa phải và không bị che, choi lưới cần bổ sung CO2 để sinh trưởng tốt nhất, đồng thời cần bảo dưỡng cẩn thận các chất dinh dưỡng và các yếu tố vi lượng. Choi lưới đặc biệt nhạy cảm với sự thiếu chất sắt hòa tan trong nước. Các nghiên cứu cho thấy choi lưới có thời gian nghỉ ngơi mà các lá sẽ chết. Tuy nhiên, chúng ta không nên để choi lưới khô trong khoảng thời gian này. Cuối cùng cây bắt đầu tăng trở lại. Nếu giữ với điều kiện phát triển tốt, choi lưới có thể tiếp tục sản xuất lá trong nhiều năm mà không có một khoảng thời gian nghỉ. Nếu không cung cấp đầy đủ với CO2 và các chất dinh dưỡng, choi lưới vẫn ra lá khỏe mạnh, nhưng nó sẽ sử dụng chất dinh dưỡng trong củ, và sẽ sớm hết dự trữ và teo nhỏ lại. Cuối cùng, điều quan trọng cần lưu ý là choi lưới sẽ sống tốt hơn khi nhiệt độ dưới khoảng 75 độ Fahrenheit (24 độ C). Nhiệt độ lớn hơn có thể dẫn đến sự tăng trưởng chậm hơn và cây nhỏ hơn, nếu quá ấm có thể dẫn đến một sự dừng tăng trưởng.

    Nếu hạt giống được tạo ra, giống như các hạt Aponogeton khác, hạt được bao bọc bởi lớp vỏ chống thấm. Điều này cho phép hạt giống nổi một hoặc hai ngày cho đến khi vỏ hạt hư hoại, phát hành phôi, chìm ngay lập tức và cố gắng bắt rễ. Những cây con phôi thai nên được trồng trong cát silica trộn với một ít đất để tạo ‘cát bùn’. Do sự phát triển tốt các điều kiện được mô tả ở trên, các cây con trong 3 – 4 tháng phải đạt được chiều dài lá là 10 cm và củ của cây hơn 1 cm. Lúc này các cây con có thể được trồng.

    Giống henkelianus và major với ánh sáng tốt, có thể khá nhỏ gọn, có thể phù hợp với trung cảnh các hồ lớn. Sự giống madagascariensis nên được đặt ở hậu cảnh của hồ và chỉ thích hợp cho thủy sinh khi cây đủ nhỏ và chưa vươn tới bề mặt.

  • Choi lá nhăn (Wavy swordplant) (Aponogeton crispus)

    Tên gọi khác: Wavy swordplant
    Độ khó: Dễ
    Bố trí: Hậu cảnh
    Ánh sáng: Trung bình
    Nhiệt độ: 15-32 °C
    Độ pH: 5.0-8.0
    Cấu trúc cây: Củ (Bulb)
    Họ: Aponagetonaceae
    Chi: Aponogeton
    Vùng: Asia (Sri Lanka)
    Chiều cao: 25-50 cm
    Chiều rộng: 15-30 cm
    Tốc độ phát triển: Nhanh
    Mọc trên cạn: Không thể

    Choi lá nhăn

    Apongeton crispus, nguồn gốc từ các ao xuất hiện theo mùa và các khu vực đầm lầy ở Sri Lanka, là loài cây rất phổ biến trong thương mại thủy sinh. Mặc dù cây mọc trong các ao được hình thành từ nước mưa trong mùa mưa, Apongeton crispus không cần thời gian ngủ đông trong hồ. Nó cũng có thể dễ dàng ghép với các cây khác cùng chi. Loài cây phổ biến này có thể thấy online hoặc các hồ và ao lớn.

    Apongeton crispus dễ trồng và thích hợp cho người mới chơi thủy sinh. Ánh sáng trung bình và nền nhiều dinh dưỡng là yêu cầu của cây. Axit nhẹ được khuyến khích cho cây, nhưng cây cũng có thể sống trong môi trường kiềm. Cây là ứng viên xuất sắc cho hồ thủy sinh không CO2, ít bảo quản với nền sỏi.

    Lá vàng và xấu nên được cắt đi. Nhân giống dựa vào sự phân củ hay bằng hạt. Cây cũng có thể ra hoa.

    Do kích thước lớn của cây, Apongeton crispus phù hợp chỉ trong hồ lớn. Ngay cả trong hồ lớn, sâu, cây có thể phát triển và lá của nó trải dài lên phía trên, nên nhớ thói quen tăng trưởng của nó khi trồng nó trong hồ cá của bạn. Điều này có nghĩa rằng, cây này là rất thích hợp cho hậu cảnh hoặc trồng đơn độc trong hồ thủy sinh

  • Choi boivini (Aponogeton boivinianus)

    Độ khó: Dễ
    Bố trí: Hậu cảnh
    Ánh sáng: Trung bình
    Nhiệt độ: 16-26 °C
    Độ pH: 6.0-8.0
    Cấu trúc cây: Củ (Bulb)
    Họ: Aponagetonaceae
    Chi: Aponogeton
    Vùng: Africa (Madagascar)
    Chiều cao: 30-60 cm
    Chiều rộng: 20-30 cm
    Tốc độ phát triển: Nhanh
    Mọc trên cạn: Không thể

    Aponogeton boivinianus

    Choi Boivini là loại cây to khỏe chỉ thích hợp với những bể lớn.Trong điều kiện sống hòan hảo lá của chúng có thể phát triển rất lớn (trên 80cm chiều dài và 8cm chiều rộng).Những chiếc là già thường có màu xanh đậm, trong khi đó, lá non có màu xanh nhạt và thậm chí có cả ánh nâu cho đến khi chúng thực sự trưởng thành. 

    Trong tự nhiên Choi Boivini được tìm thấy ở những nơi có dòng chảy mạnh, do vậy chúng ưa những chỗ có dòng nước chảy trong bể trồng. Chúng cần những khoảng thời gian nghỉ.Lúc này cây không sản sinh ra lá mới.

  • Cần trôi (Ceratopteris pteridoides)

    Độ khó: Dễ
    Ánh sáng: Trung bình
    Cấu trúc cây: Mọc nổi (Floating)
    Họ: Pteridaceae
    Chi: Ceratopteris
    Chiều rộng: 10-30 cm
    Tốc độ phát triển: Rất nhanh
    Mọc trên cạn: Có thể

    Cần trôi
  • Cabomba palaeformis

    Độ khó: Trung bình
    Ánh sáng: Trung bình
    Cấu trúc cây: Thân dài (Stem)
    Họ: Cabombaceae
    Chi: Cabomba
    Vùng: Châu Mỹ
    Chiều rộng: 5-9 cm
    Tốc độ phát triển: Nhanh
    Mọc trên cạn: Không thể

    Cabomba palaeformis
  • Blyxa alternifolia

    Độ khó: Khó
    Ánh sáng: Cao
    Cấu trúc cây: Thân dài (Stem)
    Họ: Hydrocharitaceae
    Chi: Blyxa
    Vùng: Châu Á
    Chiều rộng: 2 in
    Tốc độ phát triển: Nhanh
    Mọc trên cạn: không thể

    Blyxa alternifolia
  • Blyxa (Bly-za) aubertii

    Độ khó: Trung bình
    Ánh sáng: Cao vừa
    Cấu trúc cây: Lá xếp vòng (Rosette)
    Họ: Hydrocharitaceae
    Chi: Blyxa
    Vùng: Vùng nhiệt đới cùa Châu Á, Châu Phi, Châu Úc
    Chiều cao: 16 in
    Tốc độ phát triển: Nhanh
    Mọc trên cạn: Không thể

    Blyxa

    Blyxa (Bly-za) aubertii là một cây thủy sinh thật sự tìm thấy ở Đông Nam Á, Châu Phi, Nhật Bản và Australia. cây được tìm thấy trong nhiều môi trường sống từ cánh đồng lúa hay dòng suối. Mặc dù cây có mặt trong thủy sinh một thời gian khá lâu, nhưng loại cây này không trở thành mội cây phổ biến. Hiện nay, đễ có loại cây này thường chỉ thông qua trao đổi hoặc thông qua các người bán lẻ. Blyxa echinosperma trước đây được coi là thuộc loài này nhưng bây giờ đã công nhận là khác với loài Blyxa aubertii.

    Trồng Blyxa aubertii không phải đặc biệt khó khăn. Cây thích điều kiện ánh sáng cao trong các hồ công nghệ cao, cây là khá dễ chịu và không có một đòi hỏi nào khó khăn. Miễn là cây được cho CO2 phong phú và bón phân đều đặn. Khi ở điều kiện thông thoáng và nhiều chất sắt, Blyxa aubertii có thể có màu nâu sẫm (màu hạt dẻ – maroon). Một điều cần nhớ là loài này là hơi tinh tế và không chịu được dòng nước quá mạnh hoặc động vật hung dữ. Nếu không cây có thể bị rách.

    Nhân giống Blyxa aubertii có thể được thực hiện theo hai cách. Đầu tiên đơn giản chỉ để cho cây trưởng thành và tự sinh sản. Cây con có thể được tách nhẹ nhàng và trồng ở một nơi thích hợp. Phương pháp thứ hai của nhân giống hơi thú vị: Khi được có điều kiện lý tưởng, cây thường tạo ra nhiều hoa nhỏ màu trắng trên đầu lá. Chúng ta có thể thụ phấn nhân tạo cho cây, nhưng điều này không cần thiết vì hoa hoàn toàn có khả năng tự thụ phấn. Các hạt có thể được tìm thấy trong túi của cây sau khi thụ phấn. Khi hạt đổi từ một màu xanh nhạt thành màu nâu, đó là thời điểm để gieo trồng. Trong cả hai cách, một bề mặt nền giàu dinh dưỡng và không bị khuất ánh sáng là điều cần thiết. Hạt sẽ tự chìm và phải được đặt nơi chúng không bị di chuyển bởi dòng nước hoặc bị xáo trộn. Cây con có thể di dời khi cao khoảng hai inches. Ngoài ra, có thể để cây tự phát triển trong hồ nhưng điều này không hiệu quả.

    Do kích thước hơi nhỏ của cây dưới ánh sáng mạnh, Blyxa aubertii là một lựa chọn tốt để thay thế Cyperus helferi và các loài cây giống cỏ khác. Nhưng không cây không phải là một loài nhỏ gọn như B. japonica. Khi trưởng thành, cây có thể dễ dàng phát triển cao trên 16 inches (41 cm) và rộng 8 inch (20 cm); vì kích thước của mình cho phù hợp. Blyxa aubertii là một cây ở hậu cảnh tuyệt vời cho hồ cá cảnh khoảng 40 gallon và trung cảnh ở các hồ lớn hơn. Theo quan điểm của tác giả, cây khá phù hợp với các loài dương xỉ như Bolbitis heudelotii

  • Bình quả thảo (Cardamine lyrata)

    Độ khó: Dễ
    Ánh sáng: Trung bình
    Nhiệt độ: 15-24 °C
    Độ cứng nước: Mềm – cứng
    Độ pH: 6-8
    Cấu trúc cây: Thân dài
    Họ: Brassicaceae
    Chi: Cardamine
    Vùng: Châu Á (Nhật Bản)
    Chiều cao: 20-50 cm
    Chiều rộng: 15-30 cm
    Tốc độ phát triển: Nhanh
    Mọc trên cạn: Có thể

    Bình quả thảo
    Bình quả thảo

    Bình quả thảo (Cardamine lyrata) là cây sống trong đầm lầy tìm thấy trong vùng đầm lầy cận nhiệt đới của của Nhật Bản. Bình quả thảo cũng phát triển tốt trong các hồ nhiệt đới, vì vậy loài cây này rất phổ biến và thấy nhiều trong các hồ thủy sinh.

    Bình quả thảo là một loài cây đòi hỏi ít. Cây phát triển nhanh với các cành màu nhạt và lá hình quả cậc (bầu dục) hơi nhăn. Cây cần ánh sáng hơi nhiều một xíu (ít nhất là 2Watt mỗi gallon). Nếu trong ánh sang yếu, cây thường teo lại và lá cũng nhỏ hơn. Cây có thể phát triển mà không cần thêm CO2, tuy nhiên nếu có CO2 sẽ thúc đẩy cây phát triển nhanh và mạnh. Kích thước lá có thể điều chỉnh bằng các nhiệt độ khác nhau. Nước lạnh (ít hơn 70F) sẽ cho lá lớn, trong khi nước ấm (lớn hơn 80F) sẽ cho lá rất nhỏ.

    Bình quả thảo mọc dạng gần như dây bò dưới nước. Rễ mọc giữa các đốt thường bị che dấu bởi sự dày đặc. Cây rất dễ nhân giống, chỉ cần cắt thân cây đã phát triển và trồng lại. Phần cắt sẽ nhanh chóng mọc rễ và tiếp tục phát triển.

    Vì cách phát triển của mình, Bình quả thảo rất có ích trong việc tạo ra độ tương phản trong hồ có phong cách thiên nhiên. Trong phong cách tự nhiên này, Bình quả thảo với những dây leo của mình tạo ra hiệu ứng thiên nhiên nếu cho cây bò trên các thảm Riccia fuitan hoặc trên lũa. Cây cũng có thể trồng ở trung cảnh, với màu sắc nhẹ và hình dạng lá sẽ tạo nên sự tương phản với các cây khác trong hồ. Tuy nhiên để giữ cho cây mọc ở trung cảnh một cách gọn gàng thì chúng ta cần cắt tỉa  thường xuyên

  • Biệt liên (Orchid Lily) (Barclaya longifolia)

    Độ khó: Dễ
    Bố trí: Hậu cảnh
    Ánh sáng: Trung bình
    Nhiệt độ: 23-32 °C
    Độ cứng nước: Rất mềm – cứng
    Độ pH: 5-8
    Cấu trúc cây: Củ
    Họ: Nymphaeaceae
    Chi: Barclaya
    Vùng: Châu Á (Đông Nam Á)
    Chiều cao: 30-80 cm
    Chiều rộng: 20-50 cm
    Tốc độ phát triển: Trung bình
    Mọc trên cạn: Không thể

    Biệt liên

    Barclaya longifolia – Biệt liên đỏ là loại cây trồng đơn lẻ với vẻ đẹp độc đáo. Barclaya longifolia có nguồn gốc từ những vạt cỏ lớn của Nam Á. Nó thường không phổ biến trong thú chơi thủy sinh ở vùng Bắc Mỹ, nơi mà để có được chúng thường thông qua trao đổi. Tuy nhiên chúng dễ kiếm hơn ở các nơi khác vì chúng được tái tạo trong vườn ươm.

    Barclaya longifolia là thành viện của họ Nymphaeaceae và nó cơ ban là một loài sen không có lá mọc nổi trên mặt nước. Lá thon dài với màu đỏ và xanh hơi nhăn làm cho cây trông giống như loài Cryptocoryne khi nhỏ hơn, nhưng chúng sẽ nhanh chóng đạt được kích thước lớn như loài Echinodorus. Lá đỏ và xanh (phần dưới lá màu đỏ” là 2 dạng lá khác nhau, nhưng lá màu xanh có kích thước hơi lớn hơn. Như các loài Nymphaeaceae khác, hạn chế sự phát triển của rễ bằng cách trồng vào chậu sẽ làm cây nhỏ trong thời gian lâu hơn. Cây đòi hỏi ít và phù hợp với các cỡ hồ khác nhau. Cây cần ánh sáng tốt và nước không quá lạnh (dưới 75 độ F hoặc 24 độ C). Cây có khả năng lấy chất dinh dưỡng cần thiết từ nước. mặt dù chất dinh dưỡng cũng được cung cấp từ rễ (việc này không luôn luôn được khuyến khích). Mặc dù không nhạy cảm với thiếu hụt chất dinh dưỡng nhưng Barclaya longifolia lại không may mắn khi bị sự chú ý của ốc. Thậm chí trong những hồ mà ốc khi phải là vấn đề nghiêm trọng, nhưng lá cây sẽ xuất hiện các lỗ thủng nên bạn hãy chuẩn bị tinh thần để đối phó với chúng khi cần. Lá cây rất mong manh nên không thể làm thay đổi dòng nước. Điểm dáng chú ý cuối cùng là cây có một thời gian nghỉ ngơi, và cây chết và sống lại trong vài tuần. Có thể phá vỡ tình trạng ngủ đông này bằng cách di chuyển cây đến vị trí khác trong bể.

    Nhân giống Barclaya longifolia cũng thú vị như chính nó. Thỉnh thoảng cây con xuất hiện từ củ các cây lớn, nhưng phương pháp trồng cây từ hạt vẫn hiệu quả hơn. Trên thực tế Barclaya longifolia là một trong những cây dễ nhân giống bằng cách thụ phấn. Chúng có thể nở hoa trong bể nếu thành bể quá cao và hoa không thể vươn lên được đến mặt nước. Các cây khỏe mạnh sẽ thường xuyên gởi một chất lên cuống hoa và sẽ tự thụ phấn khi chúng đến bề mặt hoa. Khi hạt bắt đầu phát triển kích thước được mở rộng, khi hạt đã lớn sẽ bắt đầu vỡ ra để phát tán. Các bạn nên cắt cuống hoa ở giai đoạn này, nếu không cây phát tán sẽ là rối hồ. Bên trong lớp vỏ là một chất đông đặt màu trắng và chứa các hạt có gai màu nâu. Tách hột khỏi chất màu trắng và để vào nơi áng sáng không bị che khuất. Một vùng đất cát trong hồ và cá hiền lành là một nơi trồng lý tưởng. Vì cây con dễ tổn thương nên chúng cần đề phòng ốc hơn bao giờ hết. Khi cây con cao được vài inches thì đã sẵn sàng cho cấy.

    Barclaya longifolia chỉ được nhận thấy được tác dụng khi được cho nhiều không gian để phát triển. Hồ khoảng 75 gallon hoặc hơn là phù hợp nhất. Như những Echinodorus lớn, đôi khi khó khăn để trồng nó. Nhưng nó sẽ có hiệu quả khi trồng chúng ở hậu cảnh hoặc 2 bên của một  hồ lớn. Thật không may khi cây bị bỏ qua như một ứng viên trong hồ cá dĩa, nơi mà có điều kiện nước ấm cây rất thích

  • Bèo tây (Eichhornia crassipes)

    Tên gọi khác: Lục bình, Lộc bình, bèo Nhật Bản
    Độ khó: Khó
    Ánh sáng: Cao
    Nhiệt độ: 15-30 °C
    Độ cứng nước: Rất mềm – cứng
    Độ pH: 5.5-9
    Cấu trúc cây: Bèo, nổi trên mặt nước
    Họ: Pontederiaceae
    Chi: Eichhornia
    Vùng: Nam Mỹ
    Chiều cao: 5-30+ cm
    Chiều rộng: 6-25+ cm
    Tốc độ phát triển: Nhanh

    Bèo tây

    Bèo tây (danh pháp khoa học: Eichhornia crassipes) còn được gọi là bèo lục bình, bèo lộc bình, hay bèo Nhật Bản là một loài thực vật thuỷ sinh, nổi theo dòng nước, thuộc về chi Eichhornia của họ Họ Cỏ cá chó (Pontederiaceae).

    Loài này có tên bèo tây trong tiếng Việt vì có nguồn gốc nước ngoài đưa vào. Còn tên bèo Nhật Bản vì có người cho là mang từ Nhật về. Lộc bình do cuống lá phình lên giống lọ lộc bình.

    Cây bèo tây mọc cao khoảng 30cm với dạng lá hình tròn, màu xanh lục, láng và nhẵn mặt. Lá cuốn vào nhau như những cánh hoa. Cuống lá nở phình ra như bong bóng xốp ruột giúp cây bèo nổi trên mặt nước. Ba lá đài giống như ba cánh. Rễ bèo trông như lông vũ sắc đen buông rủ xuống nước, dài đến 1m.

    Sang hè cây bèo nở hoa sắc tím nhạt, điểm chấm màu lam. Nhuỵ hoa sắc vàng. Dò hoa đứng thẳng đưa hoa vươn cao lên khỏi túm lá.

    Cây bèo tây sinh sản rất nhanh nên dễ làm nghẽn ao hồ, kinh rạch. Một cây mẹ có thể đẻ cây con, tăng số gấp đôi mỗi 2 tuần.

    Cây bèo tây xuất xứ từ châu Nam Mỹ, du nhập Việt Nam khoảng năm 1905.

    Ở dạng tự nhiên, loại bèo này có tác dụng hấp thụ những kim loại nặng (như chì, thủy ngân và strontium) và vì thế có thể dùng để xử lý ô nhiễm môi trường.

    Không như bèo cái thường được dùng làm thức ăn cho heo (lợn) ở Việt Nam, bèo tây không có công dụng đó.

    Bèo tây được sử dụng làm thức ăn cho gia súc, dùng làm nấm rơm, làm phân chuồng.

    Trong y học thuốc Nam, lá bèo đem giã với muối rồi đem đắp lên ung nhọt sẽ làm giảm sưng.

    Cây bèo tây còn có công dụng thủ công nghiệp. Xơ lục bình phơi khô có thể chế biến để dùng bện thành dây, thành thừng rồi dệt thành chiếu, hàng thủ công, hay bàn ghế