Để hiểu tốt hơn nhu cầu sinh trưởng phát triển của lan cần phải hiểu được các điều kiện làm cho nó phát triển một cách tốt nhất trong thiên nhiên. Địa lan châu á đặc trưng sống ở các vùng núi cao, trên các mỏm đá bao bọc bởi các lùm cây và dưới các rừng tre. Dưới các điều kiện độ ẩm cao, nhiệt độ ở mức vừa phải và các cây cối cao che bớt ánh nắng mặt trời. Rễ tre và các mỏm đá bao bọc lấy các rễ của cây lan.
Nhiệt độ ngày càng giảm trong khi độ ẩm tăng. Những trận mưa trên đỉnh núi phụ thuộc vào từng mùa, gió nhiều và khoảng cách từ núi tới biển. Thậm chí, vào mùa đông, không khí khô hơn và mưa ít.
Làm sáng tỏ trong môi trường sống tự nhiên, đôi khi có thể thấy rằng các cây địa lan ưa sống trong nhà trên bậu cửa sổ hoặc dưới ánh đèn, dòng Cym Sinence là dễ dàng nhất. Nó có thể thích nghi với điều kiện độ ẩm thấp hơn và phát triển mạnh mẽ nhất trong điều kiện nhiệt độ ôn hoà. Cây Cym Faberi yêu cầu độ ẩm cao hơn và không thể thích nghi với nhiệt độ cao hơn.
Cây địa lan Châu Á thường rất khoẻ mạnh. Mỗi sự tăng trưởng là một giả hành mà nó được tách ra từ các của bẹ khác hoặc củ của cây mẹ. Mỗi giả hành đều có một bộ rễ độc lập.
Rễ của địa lan
Trái với rễ của cây địa lan lai, rễ của cây địa lan châu á rất ít khi phân nhánh và do vậy rễ không đan xen vào nhau. Thân cây mới thường rất ngắn, 2-3cm và hẹp 1.5cm. Thân cây đỡ nhiều lá, chúng phân nhánh từ mặt chậu.
Giả hành đóng vai trò là nơi dự trữ nước và chất dinh dưỡng chính cung cấp cho cây. So với các loại lan khác, giả hành của địa lan nhỏ và không thể dự trức được nhiều nước, vì vậy cần phải tưới nước thường xuyên trong suốt quá trình sinh trưởng của chúng (Xem các điều kiện phát triển)
Lá của địa lan
Đối với những người sưu tập lan Châu Á thì lá của địa lan gần như quan trọng hơn cả hoa. Lá cây có thể rất dày và dài phụ thuộc vào các loài. Chẳng hạn, Cym georengii có thể đến 1cm và dài 6inch, trong khi loại Cym Siense có thể đến 4cm và cao đến 18inch. Hầu hết lá cây phẳng nhưng một số có hình bầu dục giống như “Tu Er Lan” (Lan tai thỏ)
Một số biến thể khác bao gồm lá cong, vặn và xoắn, nhưng điều quan trọng nhất đối với những người sưu tập lan là đó là những hình thái của biến thể khảm (điểm nhiều đốm màu khác nhau). Biến thể khảm đã xuất hiện qua quá trình tiến hoá và tiến xa hơn qua quá trình lai tạo. Những biến thể đó có thể được phân loại thành vài loại dựa vào hình mẫu của biến thể và màu sắc. Nói chung, biến thể khảm được coi là các biến thể mạnh mẽ hơn, được quan tâm hơn và có giá trị hơn.
Hoa của địa lan
Hoa của cây địa lan châu á thường nhỏ, khi so dánh với hầu hết các loài địa lan khác. Ngồng hoa có thể cao gấp 2 lần chiều cao của cây. Số hoa, hình dáng hoa, hương thơm và thời gian tàn của hoa thay đổi tuỳ từng loài. Trong mỗi loại, các biến thể được đặt tên dựa vào màu sắc của hoa.
Chẳng hạn, trong dòng Sinence, có các biến thể hoa mà hầu như được biến thiên từ màu đen chủ đạo, như sinense “San Chuan”, hoa có màu vàng tuyền như loại “Wu Tsu Tsai”, màu đỏ như sinense “Ta Ming” và có màu trắng tuyền như sinense “Bai Mo Su”. Các loại hoa có thuần 1 màu là có giá trị nhất.
Tập hợp các loại địa lan gồm có 44 loại truyền thống có xuất xứ từ lục địa Châu Á. Địa lan Trung Hoa là một phân nhánh của tập hợp này gồm có 5 loại. Chúng được gọi là Cymbidium Jensoa. Nhiều tài liệu tham khảo gọi là Địa lan Châu Á hoặc gọi là Địa lan Trung Hoa, thực ra chúng được tìm thấy cả ở Trung Hoa, Đài Loan, Nhật Bản và trong các miền của Thái Lan và Việt Nam.
Khi đối chiếu các văn bản Trung Quốc, Nhật Bản hoặc Hàn Quốc với các tài liệu của Phương Tây thì thấy có sự không đồng nhất do cách đặt tên và có rất nhiều sự biến đổi tên trong các nhóm loài. Năm loài của Trung Quốc trùng với năm loài chính của dòng Cym Jensoa.
Nhứng văn bản dịch tiếng Anh không liên quan đến thời kỳ ra hoa thực sự, hoặc mùi hương của loài. Mặc dù loại Faberi vô cùng thơm, xong đều là các loại Ensìolium, Karan, Georengii và một số biến thể của dòng Sinense. Trong mỗi nhóm địa lan có thể có đến 30 biến thể đã được ghi nhận.
Những biến thể này được xác định bởi màu sắc của hoa, dáng của lá và các biến thể màu lá. Những biến thể về màu hoa và biến thể lá là những cây được tìm kiếm nhiều nhất. Những loại địa lan lai đã có tại Châu Á. Chúng khó lai tạo, phải mất đến 5 năm để cho ra những cây lai. Để hiểu tốt hơn về các loài biến thể và giá trị của cây cần có sự hiểu biết vài đặc điểm cơ bản của cây.
Ở Trung Quốc, Địa lan trở thành một phần của câu chuyện thậm chí có từ trước nền Văn minh phương Tây. Suốt câu chuyện Trung Hoa địa lan đã là biểu tượng tuyệt vời và mối giao hảo cũng như kiến thức về loài hoa thanh tao và ngát hương thơm. Vào khoảng năm trăm năm trước Công nguyên, Khổng Tử đã so sánh hoa lan với các phẩm chất đạo đức trong giáo dục
Bông hoa lan cô độc, đứng, tô điểm cho mặt núi, tỏa hương thơm vào không khí khó có gì có thể diễn tả được. Một người quân tử, học đạo đức và triêt lý thì thường là người hào hoa phong nhã, không giàu có gì.
Khổng Tử cũng đã ví hoa lan là “Vua của hương thơm” (Vương giả chi hương) một chân lý còn mãi với thời gian và vẫn đúng cho tới ngày nay. Đã có nhiều cuộc tranh luận của những người mê lan về mối liên quan và tính kế thừa giữa các loại lan giữa các quan điểm đã tồn tại vào khoảng 500 năm TCN và ngày nay.
Thời xưa, giới quý tộc sưu tầm các loại địa lan. Các loại lan thường được khai thác ở các vùng núi cao và được mang về trồng. Các tính chất tự nhiên của cây làm cho nó có giá trị. Giới quý tộc thường tìm kiếm trồng và chăm sóc các loại địa lan mang các đặc điểm riêng (cây độc). Các loại lan độc được giải thưởng cao, sẽ được họ chia tách ra. Vua chúa và quan lại thưởng thức các bông hoa đặc biệt. Họ trồng cây vào các chậu được chế tác rất tỉ mỉ công phu và thường được trao đổi hoặc dâng tặng cho quan lại. Dĩ nhiên, cây càng độc thì càng có giá trị. Các buổi đàm đạo được bắt đầu bên bàn trà, đốt hương trầm và luận về hoa lan và các điều kiện trồng nó.
Thời nhà Ngụy, vào khoảng năm 220 đến 265 sau công nguyên, nghệ thuật trồng lan của tầng lớp quý tộc được phát triển cao hơn, họ đã đặt ra các tiêu chuẩn cho hoa lan trưng bày làm cảnh. Các giá trị đó đã thay đổi Cho đến thời nhà Đường năm 618 đến 907 Sau công nguyên và được trưng bày ở các vườn lan, giá trị và tính phổ thông của hoa lan đã làm cho nó đến được với tầng lớp trung lưu. Thậm chí, với tính phổ thông ngày càng cao của địa lan, đạo chơi lan được phát triển lên mức độ cao dưới thời nhà Đường với nhà thơ nổi tiếng đời Đường là Lý Bạch.
hoa lan sáng tỏa hương thơm ngát trong ngọn gió xa, hương thơm trinh nguyên cuộn chảy thành dòng.
Xuất xứ từ Trung Hoa, tính phổ biến của các loại Địa lan được lan truyền đến các khu vực của Châu Á và ngày nay lan ra cả thế giới. Nó là một đạo lý và đạo chơi lan được truyền bá rộng khắp bởi những người yêu lan, và trong văn hoá Á châu nó được tôn trọng, để cho và nhận hoa lan như một món quà tặng. Giống thư thời xưa, địa lan được coi là “món quà của sự kính trọng và bằng hữu”.
Bỏ ra bao nhiêu tháng ngày chăm lo tưới bón, tốn công, tốn sức đến khi lan vừa mới kết nụ, đơm bông hoặc vừa mua được chậu hoa tốn trên trăm bạc vội mang vào trong nhà trưng bầy cho đẹp. Mới được vài ngày hoa tàn, nụ rụng, cuống thui, lá vàng úa. Thật không có gì buồn chán và tức bực cho bằng.
Chúng ta hãy tìm hiểu những nguyên nhân nào gây ra tình trạng tệ hại thê thảm này:
Lan không ưa sự thay đổi nhiệt độ thái quá và bất chợt. Vào mùa xuân, thu khí trời mát mẻ nhiệt độ bên ngoài khoảng 60°F hay 15.6°C mang vào trong nhà nhiệt độ trung bình trên dưới 80°F hay 26.7°C. Sự thay đổi đột ngột này làm cho cô nàng Lan thể chất vốn dĩ yếu đuối lại thêm khó tính, nhõng nhẽo, khó chiều bị ê mình ê mẩy. Nhưng chuyện này chỉ xẩy ra ở các xứ Âu Mỹ vì nàng lan quê nhà vốn dĩ đã dạn dầy sương gió, nhà thì cửa trước, cửa sau mở ra trống trước trống nên làm gì có chuyện thay đổi đột ngột. Hơn nữa nhiệt độ bên ngoài nếu có thay đổi cũng từ từ phải cả tiếng sau mới khác biệt, tuy vậy nhưng người ở miền Nam California đã kinh nghiệm chuyện này. Sau một trận gió mệnh danh là “Santa Ana wind” vừa khô, vừa nóng lại còn thêm cơn gió thổi mạnh như bão, mấy chiếc nụ vừa ra đã úa vàng và rụng dần. Nói tóm lại sự thay đổi đột ngột tăng lên từ 10°F hay 6°C sẽ ảnh hưởng đến chuyện héo hoa, rụng nụ, nhưng nếu lạnh xuống thì lại không sao.
Lan cần phải có độ lạnh và cách biệt giữa đêm và ngày. Chúng ta ai cũng biết rằng muốn giữ hoa lâu tàn, cần phải để trong phòng lạnh khoảng 50°F hay 10°C. Trong nhà cửa kính kín mít, nhiệt độ ban ngày và ban đêm lúc nào cũng vậy, cho nên ban đêm cần hé mở cửa sổ hoặc hạ bớt lò sưởi xuống 60°F hay 15,6°C cho dễ ngủ và tốt cho lan.
Lan cần ẩm độ trung bình từ 50%, nhưng trong nhà vì nấu bếp, vì lò sưởi cho nên ẩm độ xuống rất thấp chỉ còn khoảng 5-10%. Vì vậy cần để chậu cây bên trên đĩa nước có lót những viên đá nhỏ hoặc dùng bình phun nước (sprayer) mỗi ngày vài lượt để cho lá và hoa khỏi khô. tốt hơn mua một máy phun hỏi ẩm (Humidifier) loại rẻ tiền khoảng $20. Nên dùng nước cất (distilled) hay nước lọc để khỏi đóng cặn trên lá.
Lan cần thoáng gió, trong nhà không khí không chuyển động, không thích hợp với lan, nhất là các loại phong lan. Tránh để lan vào một góc không có người qua lại, vì đi qua hay lại cũng làm không khí chuyển động. Nếu cần để một chiếc quạt nhỏ loại xoay qua xoay lại (occilating fan).
Lan không ưa mùi gas, mùi xào nấu, khói bếp, những mùi xăng nhớt hay hóa chất trong các bình xịt bằng hơi ép. Vì vậy nên để lan xa bếp lò, lỗ lò sưởi thổi ra.
Lan cần ánh sáng để nuôi sống cây và giữ cho hoa lâu tàn. Thiếu ánh sáng mầu sắc sẽ lạt dần và lan dễ bị bênh.
Lan không ưa tưới thường xuyên. Khi ở ngoài trời có nắng có gió, trung bình một tuần tưới một lần. Lan để trong nhà tưới thưa hơn, từ 1 dến 2 tuần, nhất là những chậu lan trồng bằng rêu (sphagnum moss). Khi tưới nên nhớ tưới cho thật đẫm. Mỗi ngày tưới một chút là giết cây lan dần dần vì rễ lúc nào cũng ướt. Những giống nữ hài (Paphiopedilum) hay Đinh tử hương (Zygopetalum) và những loại Masdevalia cần tưới hàng tuần đừng để cho khô rễ, nhưng cũng không nên tưới quá thường xuyên.
Một số lan rất nhậy cảm nhất là những loại lan nguyên thủy (species) không ưa những sự thay đổi từ nhiệt độ, độ ẩm, hơi đốt… Lan lai giống bán trên thị trường thường mạnh hơn vì đã được lựa chọn nhũng giống mạnh, hoa nhiều và lâu tàn.
Để lan trong nhà cần phải chú trọng những điều kể trên và nơi tốt nhất là gần cửa sổ hướng Nam có ánh nắng chiếu vào. Mang lan vào trong nhà để chưng bầy không nên để quá 2 tuần lễ, nếu không cây lan sẽ yếu dần. Để quá lâu lan sẽ chết. Tốt hơn hết là sau 2 tuần cắt bông để giữ cho cây được mạnh và sẽ có hoa vào năm tới.
Chúng ta được biết Singapore có một trại trồng hoa lan Dendrobium thu nhập mỗi năm 10 triệu USD do bán cây con và xuất khẩu 10.000 cành Dendrobium trắng và tím mỗi ngày sang các thị trường thế giới, đặc biệt là Nhật. Các giống khác như Cymbidium hay Odontoglossum là giống thường bị nhiễm trùng được hoàn toàn miễn nhiễm.
Hoa Dendrobium cắt cành được kéo dài đời sống và có màu toàn trắng hoặc toàn tím. Trại tên là Wildtech Agro Farm, tập hợp những người sản xuất trong vùng lại để cùng nhau liên lạc với thị trường thế giới, đồng thời cùng thừa hưởng những kỹ thuật tối tân của thế giới, trại này thu hết các sản phẩm của nông dân địa phương rồi xuất khẩu bảo đảm cho mỗi nhà vườn có một số lời nhất định. Đồng thời trại có một ngân hàng cây con có thể đáp ứng nhu cầu khắp nơi.
Chuyên gia về sinh học phân tử tạo các giống mới như Hoàng Thảo trắng và tím. Mỗi năm cung cấp 1 triệu USD cho phòng nghiên cứu thực vật của trung tâm sinh học tế bào và phân tử thuộc đại học quốc gia Singapore, một trung tâm đứng đầu thế giới nghiên cứu hoa lan mà tôi sẽ đề cập dưới đây. Trại rộng 5 ha nhưng chỉ cần 30 nhân công bởi vì phun sương hay tưới tiêu có robot bảo đảm ngày đêm. Và trại gởi nhân viên đến trường đại học để bồi dưỡng kỹ thuật tối tân nhất, thu hoạch hoa bằng xe hơi nhỏ, sau đó di chuyển từ khu này đến khu khác mỗi khu là một đơn vị gồm khoảng 1.000 bàn dài giống của ta nhưng dài 20 m trên che lưới đen (lưới này thu bớt 50% ánh sáng).
Hoạt động của phòng là nghiên cứu cây hoa lan đặc biệt Hoàng Thảo, dưới khía cạnh sinh học phân tử.
1. Trị bệnh
hoa lan dễ bị nhiễm virut hơn cây thu hoạch theo mùa màng. Được biết 25 giống nhiễm hoa lan nhưng hai giống quan trọng tên Virus Cybidium mosaic (khảm) (CyMV) và virus Odontoglossum Ringspot (dấu tròn). Cả hai đều làm chết thối cành, hoa; mất màu. Riêng CyMV làm mất màu và thối lá thân. Hai virus này lây lan nhanh bởi vì được thu hoạch bằng cách cắt ngọn cây hoa lan đơn thân (Phalaenopsis) hoặc cắt nhánh (Dendrobium) quanh năm. Virus được truyền từ cây này sang cây khác qua trung gian các dụng cụ làm vườn. Một lý do truyền virus nữa là trong 20 năm qua chúng ta nuôi cấy mô để nhân giống vô tính nhanh, nhưng quên ghi dấu cây nhiễm trước khi đưa vào nuôi cấy. hoa lan bị nhiễm có thể hoặc không thể để biểu lộ triệu chứng bệnh tùy theo sức khỏe và điều kiện nuôi trồng chúng. Vì vậy khó chẩn đoán bệnh qua triệu chứng nên khó kiểm soát virus gây bệnh. Từ 1990 người ta dùng phương pháp lai acid nucleic bằng cách phối hợp cDNA với CyMV và ORSV để nhận virut đó. Phương pháp này rất phức tạp.
2. Nắm vững bản đồ gen
Muốn xuất trại hàng ngàn cành hoa lành mạnh đồng màu (trắng hoặc tím). Trung tâm sinh học tế bào và phân tử còn nhận ra được các gen trách nhiệm từng màu và còn đánh thức các gen ngủ ở mỗi lá Hoàng Thảo để cho mỗi lá đều có một cành và trên một chậu Dendrobium, có thể cắt khoảng 7 cành lành mạnh cùng hoa trắng hoặc tím. Họ nắm vững bản đồ gen.
Sở dĩ nước bạn thành công tạo nhiều cành hoa đẹp là vì các trại cùng phối hợp dưới một chỉ đạo duy nhất và đều tin hoàn toàn vào khoa học kỹ thuật. Đom đóm nhờ có gen Luciferase nên phát quang được. Tiến sĩ Chia đã cô lập được gen này và bắn ba lần liên tiếp vào mô sẹo hoa lan Hoàng Thảo trắng. Sau đó, chọn tế bào nào phát quang và nuôi kế tiếp đến khi thành một cây Hoàng Thảo nguyên vẹn có huỳnh quang.
Trong muôn ngàn loài hoa đua hương khoe sắc mà thượng đế đã ban cho loài người chúng ta, hoa lan được người Á Châu liệt vào hàng Vương giả chi hoa. hoa lan Disa uniflora được mệnh danh là: Hoa của thượng đế (The flower of the God), lan Cattleya là Nữ hoàng của loài hoa (Queen of the flowers), hoa lan Angraecum sesquipedale là: Ngôi sao của thành Bê-lem (The star of Bethlehem), lan Brassavola nodosa: giai nhân trong bóng đêm. Việt nam, quê hương của chúng ta cũng là quê hương của khoảng trên 140 loại hoa lan chia ra chừng 1000 giống nguyên thủy. Những cây lan này sinh sản tại các vùng rừng, núi Cao bằng, Cha pa, Lào Kay, Huế, Hải Vân, Quy nhơn, Kontum, Pleiku, Ban mê thuột, Phan Rang, Đà lạt, Di linh v.v… Trong số lan của Việt Nam có rất nhiều cây hiếm quý và có những cây trước kia chỉ thấy mọc ở Việt nam như cây lan nữ hài Paphiopedilum delenatii, cánh trắng môi hồng do một binh sĩ người Pháp đã tìm thấy ở miền thượng du Bắc Việt vào năm 1913 sau đó người ta cũng tìm thấy tại Trung Việt vào năm 1922 và rồi mãi cho đến năm 1990-1991 mới tìm lại được ở Khánh hòa.
Gần 50 năm tuyệt tích, cây lan này đã làm giầu cho một số nhà trồng tỉa người Âu, đã cấy giống, gieo hạt, và bán ra với một giá khá cao.
Joao de Loureiro, một nhà truyền giáo đã tìm thấy cây lan Giáng hương quế Aerides odorata tại một vùng gần Huế và sau khi đi khắp một vòng Đông Nam Á châu, ông đã viết một một cuốn sách về các loại lan Aerides vào năm 1790. Một cây lan loại này giá bán tại Luân Đôn vào năm 1855 là 89 đồng Anh kim khoảng 225 Mỹ kim và một cây Vanda, giáo sư Phạm Hoàng Hộ gọi là Huệ Đà, nhưng những nhà chơi lan ở trong nước lại phiên âm là Vân Đa giá bán vào năm 1885 là 180 Anh kim, khoảng 450 Mỹ kim.
Nhiều cây lan Việt Nam, hoa thực là xinh đẹp, hương thơm ngào ngạt mà tên gọi lại thanh nhã, mỹ miều như: Bạch ngọc, Giáng xuân, Hạc đính, Long tu, Giã hạc, Kim điệp, Bạch phượng, Hoàng thảo, Ngọc điểm v.v… Trong văn học chẳng thiếu gì chuyện về lan như Hương cuội trong Vang bóng một thời của nhà văn Nguyễn Tuân và những chuyện tìm lan của nhà văn Nhất Linh.
Trước năm 1975 du khách lên Đà Lạt, Lâm Đồng chỉ cần bỏ ra vài chục bạc là đã có những giò lan xinh đẹp. Tại khu chợ chim, chợ chó đường Hàm nghi thường được gọi là chợ Cũ cũng là nơi bầy bán những cụm lan rừng vào dịp cuối năm. Những buổi sáng mùa xuân, khách bộ hành khi đi qua con đường Duy Tân cây dài bóng mát, công viên Gia Long đầy rẫy những cây sao, tàn cao sừng sững, hoặc con đường Nguyễn bỉnh Khiêm cây xanh rợp bóng, thường thấy hương thơm như mùi trầm, mùi quế phảng phất đâu đây. Đó là huơng thơm của những chùm hoa Rhynchostylis gigantea trắng lấm tấm tím, đỏ mọc trên những hàng cây me, cây dầu, cây sao mà giới bình dân ở Saigon đã đặt cho một cái tên chẳng thanh tao chút nào: lan me, lan đuôi chồn mà quên hẳn cái tên đẹp đẽ và văn vẻ là Ngọc điểm đã có từ xưa.
Hiện nay trong nước có nhiều người sưu tầm và nghiên cứu về lan và cũng có những công ty trồng lan để bán và xuất cảng nhưng với số vốn hạn hẹp, kỹ thuật thô sơ nên không thể nào cạnh tranh nổi với các nước láng giềng đã có mặt trên thị trường quốc tế từ lâu. Ngoài ra do quy luật quốc tế bảo vệ các giống vật và cây hiếm quý do quy ước Convention on International Trade in Endangered Species of wild fauna and flora (CITIES) đã cấm mua bán một số đặc sản, cho nên hoa lan cuả Việt nam khó lòng được chính thức nhập cảng vào Hoa kỳ. Trong khi đó nhiều con buôn đã thuê người vào rừng thẳm, núi cao để kiếm lan bất kỳ lớn, nhỏ quý giá hay không đem bán cho các lái buôn Thái lan hoặc Đài loan với giá rẻ mạt: 2 Mỹ kim một kí lô. Những cụm lan rừng vẫn được bầy bán tại các hội hoa lan tại Santa Barbara hay South Coast Plaza có thể là xuất xứ tại Việt Nam.
Nói về hoa lan, phải nói tới người Trung hoa. Tiếng LAN, chúng ta đã vay mượn của họ. Người Tầu đã biết về lan vào khoảng 2500 về trước. Thời đại của đức Khổng tử 551-479 trước thiên chúa giáng sinh đã có câu “Dâng hương lan cho chúa”. Năm dương lịch thứ 300 họ đã biết tới hoa lan đất Tử cán, Cymbidium ensifolium. Việt Nam cũng có thứ lan này, tên là Thanh ngọc, mọc từng bụi thấp nhỏ, lá dài chừng 40-50 phân, hoa xanh nhạt hoặc nâu nhạt, hương thơm ngát thường tìm thấy ở Lào kay, Hà nam, Kontum, Gia ray và Lâm đồng, giá bán tại Hoa kỳ độ 30-40$ một chậu nhỏ. Năm thứ 1000 người Trung hoa đã có sách nói về khoảng 1000 giống lan và chỉ dẫn cách trồng.
Hồ điệp Phalaenopsis thuộc họ lớn nhất trong vưong quốc các loài cây, họ lan orchid (orchidaceae). Những loại này lá loại độc chân (không có lá bên), trong khi đó nhánh chính tiếp tục phát triển quanh năm và chỉ một chùm hoa có thể mọc ra từ một nách lá. Phalaenopsis có những lá mập xếp thành 2 dãy đối xứng. Trong thiên nhiên, Phalaenopsis phát triển trong tất cả các vùng nhiệt đới châu Á, Cây phát triển trong tự nhiên ở nhiệt độ ngày là 28-35oC, đêm: 20-24oC và độ ẩm tương đối cao.
Phalaenopsis ưa bóng râm, cây có khả năng hấp thụ chất dinh dưỡng qua rễ và lá. Rễ cũng đóng vai trò neo giữ cây.
Lan Hồ Điệp có chừng 44 loại nguyên giống, mọc trên giẫy Hi mã lạp sơn đến suốt châu Á và sang cả Úc châu. Việt Nam có chừng 7-8 giống. Vào năm 1750 G.E. Rumphius đã tìm ra cây Hồ Điệp nhưng lầm tưởng là một loại Angraecum và sau này Carl Blume mới tìm ra cây Phalaenopsis amabilis vào năm 1825. Theo tiếng La tinh chữ Phaluna có nghĩa là con bướm (moth) và opsis có nghĩa là giống như. Lan Hồ điệp là một loại lan thân đơn, ngắn, lá to và cứng, rễ dài. Những cây nguyên giống thường nở hoa vào mùa đông xuân, các cây lai giống hoa nở quanh năm. Nếu nuôi đúng cách lan hồ điệp có thể sống rất lâu. Có cây sống được trên 18 năm sau đó ra hoa ở ngọn rồi mới chết.
Phalaenopsis Orchids do not like to have any water sitting on their leaves overnight. If they do, they can get an infection on their leaves. Lan Hồ Điệp không thích đọng nước trên lá qua đêm. Nếu để đọng nước trên lá như vậy lá của nó có thể bị nhiễm bệnh.
Phalaenopsis Orchid plants can drop their flowers if temperatures go lower than 65 F. Hồ Điệp có thể cho bông trong điều kiện nhiệt độ dưới 65 độ F hay 18 độ C.
Phalaenopsis Orchids are the longest blooming Orchid. This happens when ideal care is given. Hồ Điệp là giống lan cho bông lâu tàn nhất trong điều kiện chăm sóc lý tưởng.
Phalaenopsis Orchids love humidity. Hồ Điệp thích ẩm ướt.
Phalaenopsis Orchid plants like to be in a tight pot. Hồ Điệp ưa được trồng trong chậu chặt khít.
Phalaenopsis Orchids like to be potted in medium bark. Hồ Điệp ưa trồng trong giá thể có kích thước trung bình.
Phalaenopsis Orchid plants do not like to dry out between waterings like some Orchids. Hồ Điệp không thích bị khô giữa hai kỳ tưới nước giống như một số loại lan khác. Một số loại lan giữa 2 lần tưới cần có 1 khoảng thời gian khô ráo.
Ghi chú:
Cách đổi độ F sang độ C: °C = (°F – 32) / 1.8
Với Hồ Điệp thì kinh nghiệm bản thân cho thấy, không cần tưới nước nhiều, 1 tuần không tưới cũng không chết được. Nhưng do Hồ Điệp rất thích ẩm nên rất dễ bị nấm, do đó phải thường xuyên phun thuốc phòng nấm. Mùa khô, nếu gió nhiều, cây dễ mất ẩm, nên thường xuyên kiểm tra để tưới thêm. Mùa mưa nên tránh không cho nước mưa đọng trên lá, không để mưa trực tiếp vô lá làm thối lá. Trồng trong chậu kín, nhiều dớn giữ ẩm tốt thì không nên tưới nhiều làm thối rễ. Trồng thoáng, để rễ mọc phía trên thì tưới nước thường xuyên để giữ độ ẩm.
Về ánh sáng thì Hồ Điệp không cần nhiều sáng, nhiều cây trồng trong nhà gần cửa sổ gắn kiếng, có chút ánh sáng ban ngày vẫn có thể cho bông. Hồ Điệp có đặc tính khi ra bông, nếu không cắt vòi khi bông tàn, để 1 thời gian vòi đó vẫn cho nhánh ra bông tiếp. Vì vậy, nếu chăm tốt, vòi bự thì nên để vòi sau khi hoa tàn, dưỡng cây 1 thời gian lại cho bông tiếp trên vòi đó. Nhưng cần lưu ý lan nuôi bông thường rất yếu, nếu tham để bông lâu thì cây sẽ đuối, lá không cứng nổi. Người biết chơi thường cắt vòi sau khi hoa tàn, hoặc thấy cây yếu thì cắt vòi sớm hơn. Sau đó dưỡng cây bằng phân 30-10-10 một thời gian cho cây khoẻ lại mới nghĩ tới chuyện kích 6-30-30 để cho vòi khác.
Hồ Điệp là giống lan có hoa lâu tàn nhất. Khi có bông, nếu không tưới phân, không để nước phun lên bông, không để ngoài nắng thì bông có thể chơi tới 2 tháng. Mãn Thiên Hồng cũng họ hồ điệp là loại có hoa bền nhất.
Hiện nay, trong khi nước láng giềng là Thái Lan và Đài Loan đã rất thành công trong ngành công nghiệp hoa lan của họ thì người Việt Nam vẫn chỉ làm kinh tế với hoa lan một cách thụ động. Nghĩa là họ chỉ chờ hoa nở, nếu như gần dịp lễ thì trúng, còn nếu trong những ngày bình thường mà hoa nở quá nhiều thì dội chợ vì không thể bán kịp. Đặc biệt là đối với lan Hồ Điệp, một loại lan có giá trị thương mại cao, nhưng lại rất khó trồng và kiểm soát.
Nhắc đến Hồ Điệp là nhắc đến Đài Loan, một quốc gia trồng có kỹ thuật trồng lan hàng đầu thế giới với khả năng trồng Hồ Điệp cắt cành, điều khiển ra hoa… và bộ sưu tập giống cực kỳ đồ sộ. Kỹ thuật điều khiển ra hoa Hồ Điệp hiện là bí quyết công nghệ của người Đài Loan. Chỉ với phương pháp điều khiển nhiệt độ, họ có thể kích thích Hồ Điệp tạo phát hoa với hiệu quả gần như tuyệt đối.
Các giai đoạn phát triển của lan Hồ Điệp trong nhà kính có thể chia thành các giai đoạn chính dựa trên nhiệt độ như sau:
Giai đoạn đầu tiên (kéo dài 22-27 tuần)
Đây là giai đoạn phát triển từ cây trong ống nghiệm cho đến khi thành cây trung. Khoảng thời gian quan trọng nhất trong giai đoạn này là lúc ra cây con, cần tránh thay đổi điều kiện sống của cây một cách quá đột ngột.
Giai đoạn phát triển (kéo dài 22-27 tuần)
Cây Hồ Điệp phát triển sinh dưỡng, nhiệt độ cho giai đoạn này nằm trong khoảng 28 đến 32o C. Nhiệt độ cao vừa phải làm gia tăng khả năng quan hợp của Hồ Điệp, đồng thời hạn chế sự ra hoa sớm không cần thiết trong giai đoạn dưỡng sức này. Theo K. Kataoka và cộng sự, giai đoạn trước khi cây ra hoa cần hàm lượng Carbohydrate rất lớn, điều này cũng có nghĩa là nếu sự ra hoa xảy ra khi cây không đủ sức, chất lượng hoa sẽ không cao hoặc làm tổn hại đến cây mẹ.
Giai đoạn thọ hàn (kéo dài 4-6 tuần)
Cảm ứng ra hoa Hồ Điệp cần phản ứng stress nước nhẹ trong nhiệt độ thấp, từ 17 đến 25oC. Tại nhiệt độ này, hàm lượng Cytokinin nội sinh trong lá tăng lên, ngược lại với hàm lượng Acid Abscisic (Wen Yu Wang và cộng sự, 2002). Ngoài ra, cũng theo nghiên cứu của Wang năm 2003, số lượng cũng như hàm lượng protein trong mô lá tăng đáng kể trong giai đoạn này. Điều này cho thấy phản ứng ra hoa để đạt đến mức tối ưu cần được xảy ra trong điều kiện lạnh, nhiều nghiên cứu thực nghiệm khác cũng đã nói lên điều này. Giai đoạn xử lý ra hoa kết thúc khi phần lớn các cây xử lý tạo phát hoa non khoảng 2-5cm.
Giai đoạn kết thúc (kéo dài 8-15 tuần)
Sau khi cây Hồ Điệp được 4 đến 6 lá và chiều rộng lá khoảng 25cm, cây được đưa vào giai đoạn xử lý phát hoa, nhiệt độ xử lý nằm trong khoảng 17-26oC. Trong giai đoạn này, mục tiêu của người trồng là kéo dài phát hoa, tăng số lượng hoa, điều khiển cho hoa nở đồng thời và hoa xoay đều theo trục phát hoa. Có thể chia giai đoạn này thành 3 giai đoạn nhỏ hơn. Trước tiên, phát hoa cần được kéo dài ở nhiệt độ cao (26oC) trong một khoảng thời gian ngắn, sau đó chuyển sang nhiệt độ thấp hơn (17-25oC) để cảm ứng chồi sinh sản, hạn chế tối đa số chồi sinh dưỡng. Ngay sau khi có một số nụ nhất định hình thành, để làm cho phát hoa nở đều, nhiệt độ được tiếp tục giảm xuống khoảng 19-20oC nhằm kéo dài thời gian bung cánh hoa của những hoa bên dưới, tạo điều kiện cho các hoa bên trên tiếp tục hình thành phát triển và bung cánh hoa trong cùng một khoảng thời gian ngắn.
Nhiệt độ trong suốt quá trình xử phát hoa nếu vượt quá 26oC có thể gây ảnh hưởng trực tiếp lên phát hoa, làm chột đỉnh hoặc giảm số lượng hoa.
Ảnh hưởng của nhiệt độ lên khoảng thời gian trung bình để hoa nở
Nhiệt độ (C)——Thời gian từ khi phát hoa xuất hiện đến khi hoa đầu tiên nở (ngày) 14 ——————————-266 17 ——————————-133 20 ——————————–87 23 ——————————–68 26 ——————————–52
Ánh sáng trong quá trình phát triển của lan Hồ Điệp vào khoảng 500-1500 footcandles, thuộc loại tương đối cao so với đa số các loài lan khác (Dù vậy cây không chịu được ánh sáng trực tiếp). Tuy nhiên so với nhiệt độ thì ánh sáng không ảnh hưởng nhiều đến sự ra hoa của Hồ Điệp mà chỉ quan trọng về yếu tố tích lũy dinh dưỡng thông qua quang hợp và ảnh hưởng đến đặc tính quang hướng động của hoa.
Tài liệu tham khảo:
Matthew Blanchard, Roberto lopez, Erik Runkle, Yin-Tung Wang. 2005. The Orchid Grower. Green house Grower Publish(4) 86-89.
Wen Yu Wang, Wen Shaw Chen, Kuan Liang HuangLi Sang Hung , Wen Huei Chen, Wei Ren Su.2003.The effect of daylength on protein synthesis and flowering on doritis pulcherima. Sciencetia Hor 97: 49-56.
Wen-Yu Wang, Wen-Shaw Chen, Wen-Huei Chen, Li-Sang Hung, Ping-Shun Chang. 2002 Influence of abscisic acid on flowering in phalaenopsis hybrida. Plant physiol. Biochem (40) 97-100.
K. Kataoka., K. Sumitomo, T. Fudano, K. Kawase. 2004. Changes in sugar content of Phalaenopsis leaves before floral transition (102); 121-132.
Lan hồ điệp là một loại hoa cao cấp, có giá trị kinh tế cao, tuy nhiên lại rất khó tính, có các yêu cầu sinh thái khắt khe, người trồng phải có những hiểu biết nhất định và thiết bị cần thiết để có thể chủ động điều tiết được nhiệt độ, ánh sáng, độ ẩm môi trường thích hợp cho mỗi giai đoạn sinh trưởng khác nhau thì cây mới có thể ra hoa được.
Khác với các giống lan hồ điệp bản địa có thể ra hoa bình thường nếu có chế độ chăm sóc tốt: bón phân đầy đủ, ánh sáng, nhiệt độ thích hợp thì các giống nhập nội có nguồn gốc ôn đới bắt buộc phải trải qua một thời gian lạnh để phân hóa mầm hoa (xuân hóa) rồi cây mới ra hoa được. Các cây hoa bạn mua chưa được xuân hóa vì còn nhỏ (mới có 2 lá) nên nếu trồng và chăm sóc trong điều kiện bình thường ở Hà Nội thì cây không thể ra hoa.
Kinh nghiệm cho thấy: vào giai đoạn sinh trưởng, khi cây có trên 4 lá to, khỏe mạnh (khoảng 1 năm sau trồng, tức sau thay chậu lần 2 hoặc 3) cần làm lạnh khoảng 2-3 tuần để kích thích hình thành chồi hoa. Yêu cầu nhiệt độ tối thiểu khoảng 16-18oC, tối đa 23oC, trung bình ngày đêm 19-19,5oC; độ chiếu sáng cần khoảng 5.000-6.000 lux. Giai đoạn nở hoa, yêu cầu nhiệt độ tối thiểu khoảng 19oC, tối đa 25oC, trung bình 21-22oC. Có thể dùng 1-2 lớp lưới hoặc tôn nhựa màu sáng để che chắn bớt ánh sáng, nhất là các tháng mùa hè có nhiệt độ trên 35oC. Để đáp ứng các yêu cầu sinh thái nói trên nhất thiết phải chuẩn bị nhà trồng theo kiểu 2 mái để có thể khống chế được các yếu tố nhiệt độ, ánh sáng, độ ẩm theo yêu cầu của cây vào từng giai đoạn nhất định.
Với những cơ sở kinh doanh lớn họ thường xây dựng 2 nhà lưới cho 2 giai đoạn trồng và chăm sóc, trong đó có 1 nhà được trang bị các thiết bị làm lạnh để giúp cây phân hóa mầm hoa thuận lợi. Với những đơn vị trồng hoa có qui mô nhỏ không có điều kiện đầu tư xây dựng các nhà lưới có thiết bị làm lạnh mà ở gần các điểm có khí hậu mát, lạnh như Sa Pa (Lào Cai), Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Đà Lạt (Lâm Đồng)…, có thể trồng và chăm sóc hoa ở đồng bằng, đến khoảng tháng 7 thì chuyển cây lên khoảng 2 tháng cho cây phân hóa mầm hoa rồi lại chuyển về chăm sóc cho đến khi cây ra hoa, như vậy sẽ tiết kiệm được chi phí.
– Chế độ chăm sóc: Ngoài các điều kiện về nhà trồng như đã nói ở trên thì chế độ chăm sóc đặc biệt quan trọng. Cây con nuôi cấy mô từ khi bắt đầu đưa vào chậu cho tới khi ra hoa xuất bán thường phải trải qua ít nhất 2-3 lần thay chậu (thay giá thể có bổ sung dinh dưỡng) mất khoảng 24 tháng. Trong giai đoạn sinh trưởng cần giữ nhiệt độ khoảng 23oC, không thấp hơn 20oC, hệ thống thông gió hoạt động tốt. Mùa hè che bớt 80-90% ánh sáng, mùa đông từ 60-70%.
Sau trồng 1 tháng bón thêm phân NPK 30-10-10 pha 30-40mg/lít nước phun 7 ngày/lần. Thay chậu lần 1 sau trồng 4-6 tháng khi khoảng cách giữa 2 lá đạt 12cm bằng chậu có đường kính 8 cm, bỏ giá thể cũ thay giá thể mới. Trong 3-5 ngày đầu không cần tưới nước; sau 10 ngày tưới nước và tiếp tục chăm sóc bình thường cho đến khi cây có trên 4 lá khỏe mạnh mới có khả năng phân hóa mầm hoa. Phun NPK 30-10-10 (pha 40mg/lít); có thể bổ sung thêm các loại phân bón lá khác như Komix, Thiên nông.
Thay chậu lần 2 sau trồng từ 16-20 tháng, khoảng cách giữa 2 lá đạt khoảng 18cm bằng chậu có đường kính 12cm. Che bớt ánh sáng: mùa hè giảm từ 60-70%, mùa đông giảm 40-50%, nhiệt độ 28-30oC, ẩm độ 70-85%. Sau chuyển chậu lần 2 khoảng 5-6 tháng, cây có trên 4 lá là chuẩn bị ra hoa. Trong thời gian này cần duy trì nhiệt độ thấp từ 18-25oC hoặc nhiệt độ chênh lệch ngày đêm từ 8-10oC. Lan hồ điệp có hoa liên tục do đó xử lý nhiệt độ thấp càng dài thì hoa càng nhiều, khoảng cách giữa các hoa trên cành càng ngắn.
Nhiệt độ >25oC không thể phân hóa mầm hoa, thấp <15oC thì không ra nụ, ra hoa. Khi thấy cây nhú hoa tưới phân NPK 6-30-30 pha nồng độ 2g/lít nước, phun 7-10 ngày/lần để cho hoa mập hơn, màu sắc đẹp hơn, tươi lâu hơn. Trước khi xuất bán 1-2 tháng nên để hoa nơi thoáng mát, nhiệt độ thích hợp 20-25oC, ánh sáng che bớt 70% hoa sẽ tươi hơn, bền hơn. Khi cây nở hoa không nên tưới nước hoặc dinh dưỡng lên hoa dễ làm hoa bị úng hoặc cháy. Khi hoa nở gần tàn nên cắt ngay cành và tưới NPK 30-10-10 để dưỡng cây cho trà hoa sau.
Trong việc trồng địa lan châu á, cho dù nó được trồng trong nhà kính, trồng dưới ánh đèn hoặc bên ngoài khí hậu ôn hoà, cần phải có sự quan tâm đặc biệt đến chất trồng, chậu trồng cây và các điều kiện phát triển.
Chậu trồng địa lan châu á
Nhiều thế kỷ, người trồng lan Châu Á sử dụng các loại chậu đặc biệt để kìm hãm sự phát triển của rễ theo bề rộng, rễ phát triển theo chiều sâu của chậu và duy trì sự thông thoáng. Đó không phải là ngẫu nhiên mà trong mỗi chiếc chậu đặc biệt để trồng các cây địa lan châu á đều có kích thước phù hợp: tỉ lệ giữa đường kính chậu và chiều dài là 1:3. Các loại chậu khác nhau về hoa văn. tất cả chúng được tráng men hoặc không tráng men.
Tại Hàn Quốc, chậu trồng lan truyền thống có hình ống, hẹp ở giữa, miệng loe ra và có các lỗ thông hơi bên cạnh chậu cũng như dưới đáy bình. Tại Trung Quốc, chậy có thể hình vuông hoặc hình ống, có lỗ thoát nước bên cạnh chậu và có đôn để kê chậu lan. Tại Nhật Bản, chậu thường đơn điệu, hình ống với miệng chậu loe và 3 chân.
Hiện nay có các loại chậu bằng nhựa của Đài Loan và Nhật Bản, một số trong chúng có thể tháo lắp được để dễ dàng kiểm tra rễ của địa lan và có các lỗ thông thoáng bên cạnh.
Nên chọn chậu phù hợp với kích cỡ và hình dáng của cây và không được kìm hãm nó. Chậu phải là nơi để cho cây phát triển mới, nhưng cần phải hạn chế sự phát triển rộng ra của bộ rễ. Tôi thích các loại chậu của Hàn Quốc để trồng Cym Sinence, bởi vì chúng rộng hơn và thông thoáng hơn, trong khí cây Cym Ensifolium trông đẹp hơn trong các chậu sáng và nhỏ hơn. Nếu bạn không muốn dùng chậu địa lan châu á, tôi khuyên nên dùng các chậu nhựa sâu hoặc chậu có thể trồng nhiều cây cùng loại trong 1 cái bình thường làm cho cây chật rễ.
Khi dùng các chậu gốm sứ mới mua về nên ngâm chúng trong nước vài ngày trước khi trồng cây để ngừa việc đất sét hút ẩm của chất trồng và kìm hãm sự phát triển của cây địa lan. Chậu tráng men cần phải được rửa sạch nhằm loại bỏ các chất bẩn, sáp hoặc chất đóng gói.
Chất trồng
Chất trồng truyền thống cần phải có độ thoát nước tốt, có hàm lượng dinh dưỡng cao, chống thối rễ, có độ thông thoáng tốt, và chi phí hợp lý. Để đáp ứng được các mục tiêu này, chất trồng phải là một hỗn hợp. Tiêu chuẩn của chất trồng mà tôi sử dụng là một hỗn hợp của vỏ thông, than củi và đá. Đá phải chuẩn được rửa sạch, chọn đá nhỏ cỡ sỏi hạt đậu. Khi trọng lượng là mối quan tâm, tôi thay thế bằng đá trân châu thô. Tôi đổ hỗn hợp vào trong một cái khay lớn và lắc đều để lựa ra kích cỡ của các hạt chất trồng.
Tôi lót sỏi hạt đậu dưới đáy chậu. Sau đó bắt đầu với hỗn hợp thô bên trên và dùng chất trồng mịn hơn nhồi vào trong chậu. Cách mặt chậu khoảng 1 inch, tôi cho hỗn hợp (đá trân châu, than củi và vỏ thông). Có nhiều lúc, tôi thích dùng hỗn hợp mảnh, ẩm. Khi tôi trồng dòng Einsifolium, tôi dùng chậu gốm hoặc chậu có lỗ thông hơi bên cạnh, tôi dùng đến 20% dương xỉ sợi để duy trì độ ẩm.
Ánh sáng
Mức độ chiếu sáng rất quan trọng đối với sự phát triển của địa lan. Thiếu ánh sáng cây sẽ yếu ớt và phát triển không bình thường. Nhiều ánh sáng quá mức sẽ làm hư hại lá cây và đặc biệt đối với các loài biến thể, sẽ làm giảm bớt giá trị thưởng thức do ánh áng làm thay đổi màu sắc của cây.
Trong suốt những tháng mùa hè, nếu trồng cây ở nơi có ánh náng, cần che bớt ở mức 50-70%. Những loài địa lan xuất xừ từ vùng núi cao hơn như Gorengi và Faberi tỉ lệ che sáng cần phải cao hơn. Trong suốt mùa đông, độ che sáng cần ở mức 20-50%. Bởi trong môi trường có độ che phủ này, cây địa lan Châu Á sẽ là ứng viên xuất sắc để phát triển dưới ánh sáng tán xạ, khó khăn duy nhất là vấn đề duy trì độ ẩm cao.
Một số ví dụ tốt nhất về Cym Sinence được tìm thẩy trong văn phòng nhà máy đóng chai nước tại Trung Quốc. Tại đây, cây địa lan châu á được đặt dưới dãy đèn chiếu sáng khoảng 4-5 feet và nơi được chiếu sáng 12-16 giờ mỗi ngày. Sự kết hợp của độ ẩm cao, thời gian chiếu sáng dài và gió thổi nhẹ là một môi trường hết sức lý tưởng.
Nhiệt độ
Nói chung, nhiệt độ lý tưởng cho sự phát triển của Địa lan là 20-30 độ C. nhiệt độ chênh lệch giữa ngày và đêm là 10 độ C. Tuy nhiên, các loại khác sẽ phát triển lý tưởng ở các mức nhiệt độ khác.
Chẳng hạn, dòng Faberi và Gorengi tìm thấy trong tự nhiên ở những vùng cao có mức nhiệt độ là 15-25 độ C, và chúng có thể chống chịu được nhiệt độ mùa đông băng giá. Nhiệt độ mùa hè quá 30 độ C sẽ kìm hãm sự phát triển và khả năng ra hoa của chúng.
Mặt khác, dòng Sinence được tìm thấy ở những vùng thấp hơn, không thể chống chịu lại được điều kiện nhiệt độ xuống thấp quá 5độ C, làm kìm hãm sự phát triển, nhưng có thể chiụi đựng được nền nhiệt độ cao vào mùa hè (trên 30độ C) miễn là đảm bảo được độ ẩm cao để hỗ trợ.
Sự kìm hãm tăng trưởng gây ra bởi nhiệt độ mùa hè cao được biểu hiện ở những mầm cây cằn cỗi không ra hoa trong mùa tiếp theo. Khi sống trong khí hậu có nền nhiệt độ mùa hè có thể lên đến 30 độ C cần phải tăng độ thông thoáng và sử dụng hệ thống phun sương tự động hoặc hơi mát để gia tăng độ ẩm và giữ cho nhiệt độ giảm xuống.
Độ ẩm
Có 2 thời kỳ phân biệt rõ ràng cho cả hai việc tưới nwocs và kiểm soát độ ẩm. Suốt những tháng nghỉ đông, từ tháng 10 đến tháng 3, độ ẩm cần được kiểm soát ở mức 40-60%.
Trong suốt thời kỳ tăng trưởng, giữa tháng Tư đến tháng 9, độ ẩm cẩn phải được duy trì trên 80% kết hợp với duy trì sự lưu thông không khí. Người trồng cây trong nhà cần phải nâng độ ẩm bằng cách sử dụng các khay nước đặt dưới đáy chậu cây.
Những chiếc khay này cẩn phải được nhồi đầy sỏi nhẹ để giữ cho nước không chạm vào rễ cây trong khi tạo ra tiểu vùng khí hậu cho cây. Người trồng cây ngoài trời, sử dụng mái che thuận tiện cho việc che sáng có thể kết hợp tưới buổi sáng với phun sương ẩm suốt cả ngày để gia tăng độ ẩm xung quanh cây. Khi sử dụng cách này cần lưu ý trong suốt thời kỳ cây lên mầm mới. Nước có thể đọng tại mầm cây và đó là nguyên nhân thối mầm. Việc đí sẽ giết chết mầm cây.
Sự thông thoáng
Tất cả các loài Địa lan châu á đều ưa sự thông thoáng. Kém thông thoáng sẽ tạo điều kiện cho mầm bệnh phát triển, sâu bọ phá hoại và chất trồng chóng hoai mục. Quạt gió, quạt công nghiệp và quạt thông hơi mức cao đều có thể được sử dụng. Tại nhà kính của tôi, tôi có vài dãy kệ để cây. Các giá để có lỗ, các chậu địa lan được đặt trong các lỗ đó. Sự sắp xếp này để gia tăng sự thông thoáng cho cây. Tôi cho quạt chạy liên tục để gia tăng sự lưu thông không khí. Quạt thông hơi và mái thông hơi tự động góp phần vào việc kiểm soát nhiệt độ. Nếu nhà kính nóng quá, các quạt thông gió sẽ hút gió ra ngoài để làm mát nhà kính. Tôi thường sử dụng 2 hệ thống phun sương, một để kiểm soát độ ẩm, cái còn lại hộat động tự động cùng với quạt thông gió để làm mát, và để bù đắp lại lượng hơi ẩm đã mất đi do quạt thông gió.