Cá vàng ( Cá ba đuôi) – Giới thiệu, phân loại, tập tính sống

cá vàng

Đã từ rất lâu, cá vàng đã trở thành một trong những loài cá cảnh phổ biến nhất, bởi chúng có sự đa dạng về chủng loại, màu sắc và có giá thành cũng tương đối mềm. Chính vì vậy khi bắt đầu bước chân vào việc nuôi hay chơi cá cảnh thì hầu như ai cũng đã từng nuôi loại cá này

Giới thiệu về cá vàng

cá vàng đẹp
Cá vàng – cá ba đuôi

Cá vàng hay còn gọi là cá ba đuôi có tên khoa học là Carassius auratus, đây là loài cá nước ngọt, có kích thước nhỏ và thường được nuôi làm cảnh. Cá vàng được xe là một trong những những dòng cá được thuần hóa sớm nhất, được nuôi nhiều trong các bể cá trong nhà và ngoài trời.

Video cá vàng – cá ba đuôi

Cá vàng thuộc họ cá chép, với kích thước khá nhỏ nên nó là thành viên nhỏ nhất trong họ cá này. Qua quá trình chọn và lai tạo giống, ngày nay đã có rất nhiều những đặc điểm hình thái và màu sắc khác nhau. Do chúng có sức sống yếu hơn so với loài cá thuần chủng ban đầu nên thường được nuôi ở các bể cá trong nhà.

Đặc biệt hơn, cá vàng còn có khả năng rất đặc biệt đó chính là thay đổi màu sắc theo phổ ánh sáng trong bể nuôi. Cá sống trong bể tối sẽ có màu nhạt hơn vào các buổi sáng và sẽ dần mất màu theo thời gian. Cá vàng có thể phát triển tới chiều dài khoảng 16 – 20 cm. Tuy nhiên, tùy vào điều kiện sống cá sẽ có những kích thước và màu sắc khác nhau. Tuổi thọ của cá vàng cũng được đánh giá khá cao, chúng có thể sống hơn 20 năm, nhưng đa số cá vàng nuôi tại nhà thường chỉ sống dưới 6 tới 8 năm do chưa đạt được điều kiện sống phù hợp nhất với chúng.

Clip cá vàng bơi trung tăng ăn mồi

Thức ăn của cá vàng

Cá vàng là một loài động vật ăn tạp, thức ăn của chúng không yêu cầu quá cầu kỳ, kỹ lưỡng. Chúng có thể chịu mặn tối đa là 10% và chịu được hàm lượng oxy trong nước rất thấp.  Cá rất háu ăn, tìm mồi liên tục và cũng thải nhiều phân ra môi trường nước, chính vì vậy khi nuôi bạn nên vệ sinh sạch sẽ nước để chúng không bị bệnh. Đặc biệt loài cá này rất thích nước cũ, vì thế bạn không nên thường xuyên thay nước mà khi thay nước hãy giữ lại một ít nước cũ để cá quen với môi trường sống của mình.

trùn chỉ - thức ăn cá vàng yêu thích
Trùn chỉ – giun đỏ là món ăn khoái khẩu của cá vàng

Những loại thức ăn mà bạn cẩn chuẩn bị để nuôi cá vàng:

* Thực vật: Chúng ăn chủ yếu các loại rong rêu, rau cỏ, dễ cây hoặc bèo tấm, cá vàng cũng ăn được hoa quả như chuối, bí đỏ, đậu hà lan. Một số rau đặc biệt mà chúng thích thường có rau muống, cải

* Động vật: là một nguồn thức ăn chính của loài này, phần lớn cá vàng sẽ ăn những loài động vật có sẵn trong môi trường sống của chúng như là bọ gậy, giun, tôm tép hoặc các loài giáp xác nhỏ.

* Thức ăn tổng hợp: Vì là loài cá được thuần chủng bởi con người trong mục đích làm cảnh, cá vàng thường cũng hay ăn các loại thức ăn nhân là các loại cám…. giúp tăng trưởng về màu sắc, sức khỏe và trọng lượng cơ thể.

XEM CHI TIẾT TRONG BÀI VIẾT: Cá vàng ăn gì?

Tập tính sống và hình thức sinh sản

Cá vàng con
Cá con rất nhỏ khi mới đẻ

Cá vàng sinh sản rất dễ dàng, đặc biệt nếu được nuôi ở trong một chiếc bể lớn với điều kiện môi trường thuận lợi. Đến mùa sinh sản bạn có thể nhận thấy rất dễ dàng sự iao phối cũng như đặc điểm để biết rằng con đực và con cái sắp xảy ra quá trình giao phối. Khi bạn thấy con đực có những đặc điểm sau thì hãy chuẩn bị tâm lý sắp có một đàn cấ con ra đời nhé. Cá đực xuất hiện những nốt sần đẹp ở phần nắp mang, trên ngực và cơ thể có khi cũng có nốt sần, cá tỏ ra bị kích thích và đuổi theo cá cái và xô đẩy nó; cá đực dùng nốt sần kích thích cá cái. Ở cá cái thì bạn cũng có thể nhận thấy một cách khá là dễ dàng khi thấy phần bụng của cá to hẳn lên và lệch về một bên, cá bơi lội chậm chạp, lỗ sinh dục màu đỏ hồng đến đỏ sẫm và hơi lồi ra. Sau khoảng thời gian giao hoan, cá cái sẽ tự chui vào các đám cây để tiết trứng, cùng lúc đó cá đực cũng luôn bám sát cá cái để tiến hành quá trình thụ tinh cho trứng của mình.

Cá vàng có khoảng thời gian sinh sản gần như là quanh năm, nhưng đẻ nhiều nhất vẫn là vào tháng 3 và tháng 9. Cá đẻ nhiều đợt, trứng cá có màu trong suốt, ở gần bề mặt nước, thường dính vào cây cỏ. Đặc biệt theo dõi và phát hiện cá đẻ trứng, bạn nên tách trứng ra khỏi cá bố mẹ để trứng có điều kiện nở tốt nhất, đặc biệt môi trường mới dành cho trứng cũng phải được đảm bảo giống với cá bố mẹ.

Tuy nhiên, trứng có nở được và chất lượng của việc ấp trứng còn phụ thuộc vào nhiệt độ, tốt nhất là nên giữ nhiệt độ trong khoảng 21-24 độ C, quá trình này thường xảy ra trong 4 ngày. Nếu nhiệt độ nước cao hơn thì thời gian ấp sẽ ngắn hơn, chỉ còn 2 ngày rưỡi đến 3 ngày. Ngược lại, nếu nhiệt độ thấp thì cá phải ấp trong 6-8 ngày. Cá bột nở ra có thể ăn được tảo và trùng cỏ. Nếu nhìn cá con đều một màu nâu, ta không hình dung được sự biến đổi về sau để cá có màu sắc của cá bố mẹ. Màu vàng hay đỏ bắt đầu thay thế màu nâu đồng, điều này chỉ vào khoảng ngày thứ 60 hay 80 và nhiệt độ của nước không quá 20 độ C. Về hình dạng, cá con được di truyền từ những đặc tính hình thức của cá bố mẹ, đã có thể phân biệt được kể từ những ngày đầu của đời sống của cá con.

Cá con ăn khỏe và lớn nhanh. Sau một tháng, có thể đạt kích thước 2-3cm. Nếu ương nuôi tốt, tỷ lệ sống đạt trung bình 60-70%. Sự trưởng thành sinh dục chắc chắn là vào năm thứ hai. Để tạo cá sinh sản, cần chọn các cá thể 3-4 năm tuổi. Được chăm sóc cẩn thận.

Phân loại các dòng cá

Cá vàng được phân loại dựa vào đặc điểm thân và vây đuôi, cụ thể như sau:

-Thân dài, vây đuôi đơn:

Cá vàng thông thường (Common Goldfish)

Cá vàng sao chổi (Comet)

Cá vàng kim tuyến đỏ (Shubunkin)

-Thân dài, vây đuôi đôi:​

Cá vàng đuôi bướm (Jikin)

Cá vàng đuôi công (Tosakin)

Cá vàng Wakin (Wakin)

-Thân ngắn, vây đuôi dài:

Cá vàng đuôi voan (Veiltail)

Cá vàng đầu lân (Oranda),

Hạc đỉnh hồng (Redcap Oranda​)

Cá mắt lồi đen (Broadtail Moor Goldfish/Black Moor)

Cá vàng hướng thiên (Demeranchu) hay Hướng thiên nhãn (Telescope)

-Thân ngắn, đuôi ngắn, có vây lưng:

Cá vàng đuôi quạt (Fantail)

Cá vàng ngọc trai (Pearlscale)

-Thân ngắn, đuôi ngắn, không có vây lưng:

Cá vàng Thủy bao nhãn (Bubble Eye)

Cá vàng mắt lồi (Demekin-Celestial)

Cá vàng phượng hoàng (Egg Goldfish)​

Cá vàng sư tử (Lionhead)

Cá vàng Lan Thọ (Ranchu)

Cá vàng Lan sư (Lionchu)

Cá vàng Thọ tinh

Cá vàng Pompon

-Ngoài ra còn có một số giống cá khác: Cá vàng gấu trúc, cá vàng xà cừ,…

Một số hình ảnh đẹp về cá vàng

cá vàng thường
Cá vàng thông thường – hay còn gọi là cá vàng ta, sinh sản ở Việt Nam
cá vàng mắt lồi
Cá vàng mắt lồi đuôi bướm
ranchu
cá vàng ranchu – Loại cá người tròn, ục ịch, đáng yêu
cá vàng lưng gù
Ryukin – Hay còn gọi là cá vàng lưng gù
oranda
Cá oranda hay còn gọi cá vàng đâu lân
hạc đỉnh hồng
Hạc đỉnh hồng

Trồng hoa lan cắt cành: vốn ít nhưng hiệu quả

Trước tốc độ đô thị hóa và diện tích đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, thời gian qua nhiều hộ nông dân ở thành phố Biên Hòa đã chuyển đổi sang một số nghề mới cho phù hợp.

Trên diện tích rộng khoảng 400m2, anh Nguyễn Thanh Vũ, ấp Tam Hòa, xã Hiệp Hòa, trồng khoảng 8.000 chậu lan các loại như: Đenbrô, Macara, Mãng đình hồng, Hồ điệp…, trong đó 2/3 là hoa lan Đenbrô, với khoảng gần 5.000 chậu. Do loại lan này dễ trồng, cách chăm sóc cũng khá đơn giản, thời gian ra hoa kéo dài hơn so với các loại lan khác. Mỗi tháng cắt cành bán thu được mấy triệu đồng. Anh Vũ cho biết, trồng bất kỳ loại lan nào thì người trồng cũng phải thật sự yêu thích, chịu khó bỏ nhiều công sức, thời gian để chăm sóc và phải áp dụng đúng kỹ thuật.

Ông Nguyễn Háo Văn, cũng ở ấp Tam Hòa, hiện trồng trên 4.000 chậu hoa lan các loại, trong đó hơn 2/3 là hoa lan Đenbrô, bình quân mỗi tháng vườn lan nhà ông cho thu nhập khoảng trên dưới 3 triệu đồng. Ông cho rằng, ưu điểm của nghề này là không cần nhiều diện tích đất, vốn đầu tư tùy theo quy mô của người trồng và không cần nhiều lao động.

Bà Nguyễn Thị Lan, Chủ tịch Hội Nông dân xã cho biết: “Trong những năm gần đây, diện tích đất ruộng giảm dần do nhu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Hiệp Hòa đã thành lập CLB hoa kiểng để hướng dẫn các hội viên kỹ thuật trồng lan cắt cành. Đã có nhiều hộ đạt hiệu quả kinh tế cao. Hướng tới, xã sẽ nhân rộng và phát triển thêm mô hình này nhằm tạo công ăn việc làm và thu nhập cho nông dân”.

Huỳnh Giới

Astxanthin- Thuốc lên màu cho cá đĩa

ASTXANTHIN

Để cá cảnh có màu sắc đẹp sặc sở và khỏe mạnh luôn là mục tiêu nhiều người chơi và nuôi cá hướng đến. Nhưng không phải ai cũng hiểu rõ vai trò của sắc tố – thành phần thiết yếu để tạo nên màu sắc rực rỡ cho cá. Nhiều người theo kinh nghiệm đã cho cá ăn những thức ăn giàu sắc tố trong tự nhiên như các loại tôm tép nhỏ, cá con hay tảo… ngoài ra hiện nay trên thị trường có bán nhiều loại thức ăn dạng viên đã được bổ sung sắc tố (xanthophyll) với nhiều tên gọi và xuất xứ. Tất cả các loại thức ăn kể trên đều tốt và những có tác dụng nhất định. Tuy nhiên, người sử dụng không thể kiểm soát được lượng sắc tố trong các loại thức ăn này, và không thể biết được bao lâu cá sẽ đạt được màu sắc rực rỡ như mong muốn.

Carophyll Pink® 10% CWS là sản phẩm của hãng DSM (trước đây là Roche Vitamins) chứa 10% astaxanthin – là loại sắc tố giúp cá có màu sắc đẹp rực rỡ và tăng sức đề kháng. Gần đây sản phẩm này được sử dụng trên cá cảnh và đã đem đến những tác dụng tích cực. Người chơi cá hài lòng vì vẻ đẹp màu sắc của cá kiểng, trong khi người nuôi cá đảm bảo cung cấp được cho thị trường trong nước và xuất khẩu những lô cá có màu sắc đẹp, khỏe mạnh.

Tuy nhiên nhiều người nuôi và chơi cá cảnh vẫn còn một số băn khoăn về sản phẩm này:

1. Astaxanthin là gì? Công dụng?

Astaxanthin là 1 loại carotenoid, một nhóm sắc tố hiện diện trên một số loài thủy sản, tạo cho cơ, da và trứng thủy sản có màu vàng, cam hay đỏ. Astaxanthin là nguồn sắc tố thiên nhiên tìm thấy nhiều trên cá hồi (cá có cơ và da màu đỏ), một số loài giáp xác. Hiện nay để nhuộm màu cơ, da hay làm cho cá lên màu vàng cam hay đỏ, trong thức ăn cá cảnh thường được bổ sung Astaxanthin hay Canthaxanthin để cá có màu sắc đẹp hơn và dễ tiêu thụ hơn.

ASTXANTHIN

2. Cơ chế tác động của astaxanthin?

Astaxanthin có công thức hóa học là 3,3’ dihydroxy-4,4-diketo-β Carotene. Không phải là hormone nên không gây hại đến khả năng sinh sản của cá. Cá sẽ chuyển hóa Astaxanthin trong thức ăn thành tuaxanthin và tích lũy trong da, làm cá có màu sắc rực rỡ. Cá có khả năng hấp thụ tốt các loại carotenoid theo thứ tự sau: Zeaxanthin (không phổ biến)> Astaxanthin> Lutein (trong thực vật như bắp)

3. Cá sẽ đạt màu sắc rực rỡ (nhìn thấy được) sau khi bổ sung bao lâu?

Cá khi được bổ sung astaxanthin vào khẩu phần ăn liên tục sau 7 – 10 ngày sẽ đạt màu sắc rực rỡ.

4. Nếu bổ sung quá liều có gây ảnh hưỡng xấu cho cá không?

Vì sản phẩm có nguồn gốc tự nhiên nên khi bổ sung nhiều hơn liều khuyến cáo (200 ppm) cá sẽ mau có màu sắc rực rỡ hơn. Trong trường hợp lượng dùng quá cao cá sẽ tự loại thải qua mang và bài tiết mà không gây hại cho bản thân cá.

5. Nếu ngưng bổ sung astaxanthin thì cá có bị nhạt màu đi không? Tại sao?

Vì cá cảnh thường được nuôi trong điều kiện dễ gây stress(không gần gủi với môi trường tự nhiên và tập tính của cá) nên cá phải huy động lượng sắc tố tích lũy được để chống lại bệnh tật nên sau một thời gian (tùy điều kiện nuôi và mật độ nuôi) màu sắc sặc sỡ của cá sẽ nhạt dần. Tuy nhiên, khi bổ sung trở lại thì sau một thời gian ngắn cá sẽ lại đạt màu sắc rực rỡ.

6. Astaxanthin có phải là hormon và gây mất khả năng sinh sản của cá không?

Carophyll Pink® 10% CWS là một sản phẩm của hãng DSM (Roche Vitamins), Thụy Sỹ. Sản phẩm này có chứa 10% Astaxanthin. Sản phẩm Carophyll Pink chủ yếu được dùng trong thức ăn tôm công nghiệp với công dụng tăng khả năng đề kháng cho tôm và giúp tôm nuôi công nghiệp có sàu sắc đẹp cả khi nuôi (xanh sậm) và sau khi nấu chin (đỏ hồng).

Sản phẩm này đã được dùng khá rộng rãi ở các nước nuôi tôm xuất khẩu như Thái Lan và Việt Nam. Vì vậy một khi sản phẩm tôm từ các nước này được xuất khẩu sang các thị trường khó tính như Châu Âu, Mỹ, tôm phải bảo đảm không chứa các chất kích thích hay hormone (được kiểm tra rất nghiêm ngặt). Điều này chứng minh rằng Astaxanthin hoàn toàn không phải là hormone nên không hoàn toàn không ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của cá.

7. Cách sử dụng astaxanthin?

Trong thức ăn cá dĩa hay cá la hán hiện nay, Astaxanthin đang được sử dụng theo hai cách:

  1. Đối với thịt/tim bò: trộn 2 gram Carophyll Pink vào 1 kg thịt/tim bò đã xay nhuyễn. Trộn đều hổn hợp cho tới khi hỗn hợp có màu đỏ cam. Ép thịt/tim bò thành miếng mỏng, trữ ở nhiệt độ từ (-) 5 – 0 0C cho cá ăn dần.
  2. Đối với thức ăn viên nổi: một số thức ăn công nghiệp hiện có trên thị trường đã có sẳn 1 lượng nhỏ sắc tố. Để tăng hiệu quả cho thức ăn (để cá có màu đẹp hơn, hay cá la hán mau lên “gù”), người nuôi làm theo cách sau: hòa 2 gram Carophyll Pink vào nước, sau đó rưới đều dung dịch này lên viên thức ăn. Phơi hoặc sấy viên thức ăn thật khô để cho cá ăn dần. Lưu ý bảo quản viên thức ăn nơi khô ráo, thoáng mát.

Sản phẩm Carophyll Pink® 10% CWS được đóng bao:

  • 0,5 kg/hộp
  • 10 gram/gói

Sản phẩm Carophyll Pink® 10% CWS đã được nhiều nghệ nhân tin tưởng sử dụng. Các bạn quan tâm có thể đến tham quan, tìm hiểu thêm kinh nghiệm sử dụng và mua sản phẩm trên tại:

  • Nghệ nhân Tân Xuyên – Cửa Hàng Cá Cảnh Tân Xuyên – 25 Phó Đức Chính, Q. 1, TP. HCM.
  • Vương Văn Hùng (chuyên pha tim bò cho cá dĩa) – 0908161660
  • Nghệ nhân Phan Văn Phúc 213/22/12 Nguyễn Trãi, P.12, Q.5 – ĐT: 8382695

Sản phẩm này cũng được sử dụng tại một số trại cá như: Trại cá Phúc Sơn – Gò Vấp, Trại cá của ông Lý Anh Huê – Bình Thới…

Bắt đầu chơi thủy sinh

bắt đầu chơi thủy sinh

Những kiến thức chung cho người mới bắt đầu chơi thủy sinh

1. Chọn bể

Với những người mới chơi thì chỉ nên chọn loại bể trung bình, một số kích thước sau bạn có thể chọn (dài x rộng x cao):

  • 80 x 40 x 50 (cm)
  • 60 x 40 x 50 (cm)
Bắt đầu chơi thủy sinh

Đây là các loại bể nuôi cá thông thường có bán rất nhiều trên thị trường

Bạn nên đặt bể chứ không nên mua sẵn vì lý do sau:

  • Bể nuôi cá thường có cái kiềng rất to làm nơi để cái máy bơm Oxy không thích hợp cho bể thuỷ sinh vì nó sẽ cản ánh sáng đèn xuống bể. Bạn yêu cầu họ làm kiềng nhỏ khoảng 3-4 cm là ổn rồi. Kính đáy nên làm kính 8 hoặc 10 ly cho an toàn, vì trong bể thuỷ sinh sẽ có một khối lượng tương đối nặng cát – sỏi – đá…
  • Khoảng cách từ mặt nước lên đến mép thành bể tối đa là 10 cm do vậy bảo họ làm viền thuỷ nhỏ thôi (khoảng 5cm là được) để mình còn gác đèn lên trên đó.

Chân bể: tuỳ theo điều kiện kinh tế mà bạn chọn loại chân bể hợp với mình nhưng cũng nên đặt vì chân bể bán sẵn khá yếu, không an toàn, bạn canh chừng sao cho chiều cao của chân bể sao cho chiều cao tính từ mặt đất đến mép trên của bể khoảng 1m0 đến 1m2 là tối đa, nếu bể cao quá sẽ rất khó chăm sóc và trồng cây.

2. Chọn đèn

Với kích thước bể như trên thì bạn nên sắm từ 2 – 3 bộ đèn 6 tấc, thường thì dùng loại đèn có máng Benxiang và bóng Jebo (giá 1 bộ khoảng 150.000 đồng). Việc tăng giảm đèn tuỳ thuộc loại cây bạn trồng có đòi hỏi ánh sáng nhiều hay ít.

3. Chọn lọc

Có rất nhiều loại lọc mà bạn có thể dùng cho bể thuỷ sinh như:

  • Lọc thác: với bể này thì bạn mua loại có công suất lớn một chút nhưng loại này hiệu quả lọc hơi kém, nó thích hợp cho bể nhỏ.
  • Lọc tràn: loại này kinh tế, lọc cũng khá tốt nhưng nhược điểm là chiếm mất 1 phần diện tích của bể (khoảng 25cm) và nhìn không được thẩm mỹ cho lắm. (giá khoảng 60.000 đến 80.000 cho bể có kích thước nêu trên)
  • Lọc ngoài: loại này lọc khá tốt và hiệu quả, không chiếm diện tích trong bể nhưng giá thành lại cao (khoảng 550.000 đến 700.000 / 1 bộ)

Bạn nên tham khảo trước khi quyết định mua lọc nào (mình đang dùng lọc tràn)

4. Chọn cách làm nền

Có rất nhiều cách làm nền cho bể thuỷ sinh nhưng mình xin nêu cho bạn 2 giải pháp sau:

  • Cách 1: Tự trộn phân nền (cách này rất kinh tế)
  • Cách 2: Sử dụng phân nền có sẵn

5. Sắp xếp bố cục và đổ nước vào bể

  • Bạn tiến hành sắp xếp đá hoặc gỗ vào bể theo cách của mình dự định làm
  • Sau khi ổn định vị trí của đá, gỗ thì tiến hành đổ nước vào bể, lưu ý không được đổ nước ào ào vào bể (giống như thay nước cho bể cá), nếu làm như vậy thì phân nền sẽ bị xì làm cho nước rất bẩn và khó trong.

Cách đổ nước vào hồ thủy sinh: Lấy 1 tấm kính lót xuống mặt nền bể rồi đổ nước thật nhẹ lên đó hoặc bạn cho vòi chảy rất nhẹ lên đá và gỗ.

Cách làm cho nước mau trong: bạn nên cho nước vào ra bể từ 3 đến 4 lần đến khi nhìn thấy nước trong, còn ít bụi lơ lửng trong bể nếu chịu khó cẩn thận khâu này thì nước trong bể của bạn sau khi setup sẽ rất mau trong.

Gợi ý: để làm cho hệ vi sinh trong bể mau phát triển thì bạn có thể lấy 1 ít nước cũ của bể cá hoặc bông lọc để đưa sang bể mới, tạo điều kiện “mồi” cho hệ vi sinh phát triển nhưng cũng nên lưu ý không lấy nước từ những bể thuỷ sinh có bị rêu nhé, nếu lấy nước đó thì bể của bạn cũng sẽ bị nhiễm rêu.

6. Chọn lựa loại cây và trồng vào bể

  • Tuỳ theo sở thích mà bạn chọn các loại cây mà mình muốn trồng, nên tham khảo bạn bè và nhờ tư vấn của các bạn đã chơi thuỷ sinh lâu để chọn được loại cây thích hợp và dễ trồng.
  • Mình gợi ý một số loại cây tương đối dễ trồng mà mình biết được nhé:
    1. Anubias: loại bày chia bụi rồi buộc lên gỗ, đá: loại này không cần ánh sáng mạnh, rất dễ trồng
    2. Rêu cá đẻ: cũng tương tự Anubias
    3. Một số loại cây cắt cắm và dễ trồng như: Thuỷ Cúc, Hồng Liễu, Sunset, Thanh liễu,…
    4. Một số cây bụi: Hoàng Quan Thảo, Súng tiger, Súng nhật, hẹ nước,…

Khi trồng, bạn nên cắt ngắn bớt cây hoặc cắt bớt rễ cũ trước khi trồng. Bạn dùng cây nhíp y tế (loại dài), giá khoảng 30.000/cây để cắm cây vào các vị trí thích hợp theo bố cục định sẵn.

Đối với các loại cây buộc vào gỗ đá thì bạn dùng cước câu cá loại mảnh nhất hoặc chỉ đen để buộc. Nhớ buộc vữa đủ chặt và không làm đứt thân, rễ của cây.

7. CO2

Tùy điều kiện của bạn mà dùng CO2 kiểu nào, nhưng theo mình thì nên đầu tư mua 1 bộ bình CO2 loại 2kg, có sẵn van (giá 300.000 đồng/bộ) dùng cho tiện và hiệu quả (mua ở Lãnh Binh Thăng hoặc Cao Quý).

8. Theo dõi – Chăm sóc – Thay nước

  • Theo dõi sự phát triển của cây hàng ngày
  • Thay nước 3 ngày/ lần, mỗi lần 1/3 đến 1/2 bể trong 1 tháng đầu để tránh rêu
  • Bật 2 đèn, mỗi ngày bật 8 tiếng theo kiểu: 4 bật – 4 tắt – 4 bật cũng vì mục đích tránh rêu
  • Không nên thả cá trong vòng 2 tuần đầu vì lúc này môi trường bể chưa thật sự ổn định, tốt nhất nên thả cá sau 1 tháng.

9. Một số địa chỉ có thể mua phụ tùng và vật liệu setup bể

  • Cửa hàng APT: nhà số 9 đường số 4, cư xá Bình Thới, Q11 (bên hông siêu thị Vinatex trên đường Lãnh Binh Thăng): bán Aquabase, sỏi vàng, Nham thạch, lũa, đá, cây
  • Cửa hàng Cao Quý: 808 Trần Hưng Đạo – Quận 5: bán lọc, đèn, ADA, cây, cá
  • Khu đường Lưu Xuân Tín – Quận 5 hoặc Nguyễn Thông – Quận 3 (2 khu này chủ yếu bán các loại cá)

Những hiểu biết mối về quang phổ cho cây thủy sinh

Trên căn bản, cây thủy sinh và rêu đều phát triển được dưới tất cả các quang phổ ánh sáng. Tổng kết kinh nghiệm của những trại nuôi trồng thủy sinh lớn có uy tín trong những năm gần đây cho thấy, có những vấn đề nho nhỏ, và cũng rất đáng chú ý.

Những điều thú vị về quá trình tiến hóa của thủy sinh.

Rêu là thực thể sống có mặt lâu đời nhất trên trái đất.Loại màu xanh da trời đã hiện diện từ 3.500.000.000 năm trước. Loại màu xanh lá cây- và đỏ xuất hiện tiếp theo, và rất, rất lâu sau mới có cây cỏ, cũng như các loại rong trong bể thủy sinh của chúng ta hiện nay.

Phần lớn các loại rêu đều sống trong nước cho đến bây giờ. Ngược lại hầu như toàn bộ rong đều là hậu duệ của các loại cây, trong quá trình tiến hóa đã rời bỏ môi trường nước. Mọc hàng triệu năm như những cây tầng thấp trong đầm lầy, dưới bóng những khu rừng rậm rạp. Người ta còn gọi là loại cây yếm sáng.

Như tất cả các cây tầng thấp,chúng phải thích nghi với ánh sáng còn rơi rớt lại từ những tán lá rậm rạp trên cao, với rất ít màu xanh dương-, nhiều màu đỏ- và gần như không còn phần UV (ultraviolet – tia cực tím).

mối về quang phổ cho cây thủy sinh


Rất lâu sau, những loại cây này mới trở về với nước.

Phần nhiều những loại rêu về sau di cư qua môi trường nước ngọt, ví dụ như rêu bút lông, rêu sợi, những loại đặc biệt khó chịu – thường thấy ở những khu vực nước nông, dòng chảy nhanh, ánh sáng mạnh, nước trong.

Tất nhiên người ta cũng thấy trong thiên nhiên những quần thể thủy sinh lớn mọc tại những vùng nước lặng hoặc có dòng chảy chậm dưới ánh sáng chói chang của mặt trời. Nhưng những vùng nước này không còn là màu trắng, mà bị nhuộm màu bởi lá cây, lau sậy khô rơi vào nước..v.v, cản lại rất nhiều phần xanh dương-và phần UV (những thí nghiệm mới cho thấy ở những vùng nước ngọt hoặc nước biển trong, quang phổ UV có thể xuống rất sâu, nhưng chỉ cần nước bị nhuốm một ít màu vàng,ngay ở độ sâu 70 cm UV đã bị cản lại 100 lần nhiều hơn những quang phổ từ vàng đến đỏ.)

Hiệu ứng lọc này càng lớn hơn khi nước càng sậm màu, người ta đo thấy hầu như không còn UV xuyên được vào nước ở những khu vực như vậy.

Ứng dụng nhuộm màu nước đã được dùng để kiểm tra/hạn chế sự phát triển của rêu tại những hồ, ao nước ngoài trời.

Ánh sáng trong những trại, vườn cây.

Tại đây (những vườn trồng cây trên cạn, cây thủy sinh trong nhà) người ta đã đi đến kết quả cao nhất với ánh sáng ngả qua màu vàng – đỏ của đèn chiết áp Natrium. Mặc dù vậy, loại đèn này vẫn không thích hợp được với bể thủy sinh của chúng ta, trừ trường hợp ai chấp nhận được một bể cá với màu vàng đỏ chói rực.

Những điều này chỉ ra: rong trong bể cá tại gia cũng như tại các trại nuôi trồng lớn ưa thích ánh sáng với độ xanh(dương) thật ít đến trung bình, trung bình của phần quang phổ xanh(lá cây), nhiều hơn rõ rệt trong phần đỏ. Một khẳng định đang được nhiều nhà chuyên môn xác nhận.

Ánh sáng hồ thủy sinh

Ánh sáng là yếu tố quan trọng đối với sự phát triển của cây thủy sinh. Vì tất cả caùc lọai thực vật đều cần ánh sáng cho quá trình quang hợp (Photosynthesis), kết hợp với carbon dioxide tạo thành Glucose (một loại đường đơn có chứa sáu nguyên tử carbon) và oxygen, làm thức ăn cung cấp cho quá trình hô hấp. Trong tự nhiên, ánh sáng mặt trời bao gồm tất cả các lọai ánh sáng có thể nhìn thấy bằng mắt với các mức độ phổ quang (Full spectrum).

Ánh sáng hồ thủy sinh

Phần lớn cây thủy sinh trong tự nhiên phát triển tốt dưới nước, với độ sâu không quá 30cm. Ánh sáng mặt trời rất mạnh, nhưng trước khi chiếu xuống nước thì ánh sáng mặt trời phải đi qua tầng khí quyển, các đám mây, các cành cây lớn và nước… đã hạn chế sức mạnh của ánh sáng mặt trời. Nhưng dù sao thì ánh sáng này vẫn mạnh hơn rất nhiều so với ánh sáng trong hồ cây thủy sinh. Ngoài ra cường độ của ánh sáng mặt trời của mỗi ngày lai rất khác nhau. Khoảng thời gian trong ngày mà ánh sáng mạnh nhất là vào khỏang từ buổi trưa đến chiều. Về khía cạnh cường độ ánh sáng và độ ổn định của cường độ ánh sáng có sự khác biệt nhau giữa ánh sáng tự nhiên và ánh sáng trong hồ cây thủy sinh, làm cho lọai cây thủy sinh phải thay đổi để thích ứng với điều kiện ánh sáng mới. Chúng ta có thể thấy được rằng các lọai cây thủy sinh phát triển trong tự nhiên và phát triển trong hồ cây thủy sinh, không ít hay nhiều thì chúng cũng có sự khác nhau.
Còn Light Spectrum phù hợp với sự quang hợp của lọai cây thủy sinh, quan sát sẽ thấy từ màu lá cây thông thường sẽ trở thành màu xanh lá nghĩa là thực vật hút ánh sáng trong light spectrum như dải màu đỏ và màu xanh, và phản chiếu lại là màu xanh lá, hay có thể nói rằng phần lớn thực vật sẽ lấy ánh sáng màu xanh dương (400 – 450 nanomet) và màu đỏ (600 – 700 nanomet) trong quá trình quang hợp. Do đó, lọai đèn neon thích hợp cho việc quang hợp của lọai cây thủy sinh nên có ánh sáng lọai này trong spectrum. Trong sản xuất đèn neon dành cho việc nuôi trồng cây thủy sinh thì có Sylvania-Glo-Lux hay Osram L-Fluora. Nhưng màu của ánh sáng phát ra từ lọai đèn này không được sáng lắm vì thiếu ánh sáng của dải màu xanh lá – vốn là dải màu mà mắt ngườì nhảy cảm nhất. Lọai đèn này chỉ được sử dụng trong hồ thủy sinh, nên màu không cần tự nhiên. Nếu cần nhiều độ sáng và tự nhiên hơn thì phải sử dụng lọai đèn mà thành phần gồm dải màu xanh lá.

Triệu chứng thừa/thiếu chất dinh dưỡng trên cây thủy sinh

Triệu chứng bắt đầu trên lá non

Vàng lá:

  • Lá non bị vàng, không còn xanh mà ngả ra màu vàng chanh hoặc trắng. Thân cây không mọc lên nữa và cũng ngả ra màu vàng -> Thiếu chất sắt.

Cháy lá:

  • Gân lá xanh nhưng thân lá bị vàng hoặc xanh nhạt. Có những đốm đen. Nguyên cả lá ngả sang màu vàng (trừ gân lá xanh nhưng có những chấm trắng) -> Thiếu chất manganèse.

Triệu chứng bắt đầu trên lá già

Màu khác thường, mọc không đều:

  • Thân cây mọc khoẻ, cứng cáp và dầy, lá xanh đậm và cuộn lại, đốt ngắn và cuống lá ngắn -> Nhiều chất azote.
  • Giữa gân lá bị màu xanh nhạt hoặc vàng. gân lá màu đỏ nâu, nhiều vết tím trên thân cây và gân lá mé dưới lá -> Nhiều chất manganèse.
  • Vết nâu ở các lá mọc ở phần dưới cây rồi lan từ từ lên phía trên, đốt ngắn, lá nhỏ. Cây phát triển chậm.Nguyên cả lá ngả sang màu vàng (trừ gân lá) -> Thiếu chất zinc.
  • Lá xanh nhạt, nhất là ở giữa gân lá, nhiều lúc lá vàng rồi rụng. Nhiều lúc lá có màu xanh sọc vàng. Tuy nhiên cây vẫn phát triển tốt -> Thiếu chất molybdène.
Triệu chứng thừa/thiếu chất

Vàng lá:

  • Cây ngưng phát triển, lá nhỏ và chuyển vàng (nhưng ở giữa lá vẫn xanh -> Thiếu chất potassium.
  • Lá già có màu xanh sọc vàng và đốm nâu. Viền lá vẫn xanh -> Thiếu chất magnésium.

Cháy lá:

  • Cây ngưng phát triển, lá cuộn lại và héo, ngả màu vàng và nâu, cây héo-> Quá nhiều chất azote.
  • Lá xanh đậm nhưng có đốm cháy -> Nhiều chất magnésium.

Cả nguyên cây

Màu khác thường, mọc không đều:

  • Lá nhỏ và mỏng, màu xanh nhạt, lá già bị vàng. Cây ngưng phát triển -> Thiếu chất azote.
  • Gân lá đen, Lúc bệnh nặng, lá non ngả màu vàng -> Nhiều chất zinc.

Cả nguyên cây nhưng triệu chứng khác nhau giữa lá già và lá non

Màu khác thường, mọc không đều:

  • Cây phát triển chậm, lúc sau sẽ thấy lá nhỏ, cứng màu xanh xám. Trên những lá già có những đốm mọng nước, chuyển màu và héo -> Thiếu chất Phosphore.
  • Lá non bị đốm trắng trong phía gần viền lá và giữa gân lá Cây ngưng phát triển. Lá nhỏ và viền cong về phía trên. Khi bệnh nặng, lá rụng dễ dàng. Rễ cây ngắn và nâu -> Thiếu chất Calcium.

Màu khác thường, mọc không đều, vàng lá:

  • Cây phát triển chậm, đốt ngắn và lá nhỏ. Lá vàng (xanh nhạt hoặc vàng đậm)dần từ gốc đến đỉnh cây. Lá nhỏ và viền cong về phía dưới, cây héo dần -> Thiếu chất Đồng.
  • Lá phía giữa và gốc cây vàng ít và dễ rụng. Cành cây và lá mọc không đều, viền cuốn về phía trên. Rễ đen và đầu rễ lớn -> Thiếu chất Bore.

Màu khác thường, mọc không đều, héo lá:

  • Viền lá già màu vàng xanh, cuộn lại phía dưới. Lá tròn hơn bình thường. Lá phía đỉnh cây nhỏ -> Nhiều chất Bore.

Nhiều thứ này sẽ dẫn đến thiếu thứ khác

  • Nhiều moniac / amonium = Thiếu potassium, Thiếu sắt
  • Nhiều potassium = Thiếu calcium, magnésium hay sắt
  • Nhiều soufre = Thiếu molybdène
  • Nhiều sắt = Thiếu manganèse

Phòng tránh rêu hại

1. Cho cá, tép… ăn thật ít

Có lẽ thú vui cho những người chơi thủy sinh nói chung và những người chơi thủy sinh có nuôi cá, tép.. trong bể nói riêng, đó là lúc cho cá ăn, bạn cảm thấy vui, thư giãn khi nhìn những con cá, tép đáng yêu ăn mồi. Tuy nhiên nếu như lượng thức ăn bạn cho đàn cá, tép… yêu kia nhiều hơn nhu cầu của chúng thì phần dư thừa kia chính là một nguyên nhân gây ra rêu hại, thức ăn dư thừa và chất thải của cá, tép… sẽ sản sinh ra dinh dưỡng và phosphate cao mà rêu hại thì lại cần nguồn này để sống và phát triển. Để có một môi trường trong lành thì những người chơi lâu năm khuyến cáo rằng: chỉ nên cho cá, tép của các bạn ăn mỗi ngày 1 lần với số lượng hạn chế tối đa, nhiều người chỉ cho ăn 2-3 ngày 1 lần mà thôi.

Phòng tránh rêu hại


2. Kiểm soát ánh sáng

Không nên bật đèn theo sở thích: thức dậy mở, đi ngủ tắt… Mà nên dùng bộ hẹn giờ và thiết lập một chế độ thời gian mô phỏng mẹ thiên nhiên, thời gian chiếu sáng cho bể cây cắt cắm thông thường khoảng 10-14h/ngày và những bể ít nhu cầu hơn cũng khoảng 6-10h/ngày. Phải thay bóng mới ít nhất 1 năm 1 lần, ngay cả khi bạn còn thấy chúng rất sáng vì là ánh sáng dùng cho bể thủy sinh nên quang phổ trong bóng sẽ yếu dần theo thời gian.

3. Thường xuyên thay nước

Ngoài thiên nhiên, nước mưa giúp luân chuyển và pha loãng hàm lượng Nitrate trước khi chúng vượt quá mức cho phép. Trong môi trường khép kín là hồ thủy sinh thì viêc thay nước sẽ là cách giúp giảm lượng dinh dưỡng dư thừa do lá cây mục, thức ăn sót lại và chất thải của thuỷ vật nuôi. Lượng nước nên thay là 10% hàng tuần xong khoảng 30% cho 1 tháng lá đủ trong điều kiện bình thường. Ngoài ra trong khi thay nước nên kết hợp dùng dụng cụ hút cặn bẩn, lá mục lẫn trong sỏi.

4. Kiểm tra nguồn nước của bạn

Trước khi thay nước, điều đầu tiên là kiểm tra nguồn nước mà bạn dùng để thay, phải đảm bảo chúng không là nguyên nhân gây ra rêu hại vì rất có thể nước mới mà bạn định thay với mục đích là chiến đấu với rêu hại lại chứa đựng hàm lượng phosphate cao và những chất là nguyên nhân gây ra rêu hại, lúc đó việc thay nước thường xuyên của bạn trở thành vô ích. Nên dùng nước đã qua hệ thống lọc tốt.

5. Bảo dưỡng hệ thống lọc

Đảm bảo rằng hệ thống lọc của bạn là phương tiện triệt tiêu sạch mọi nguồn dinh dưỡng của rêu hại. Việc chọn đúng loại nguyên liệu lọc sẽ có khác biệt rất lớn vì chúng giúp loại bỏ phosphate, kim loại nặng và những tạp chất, giúp giữ lại carbon chất giúp cho nước của bạn trong hơn và phân hủy những chất hữu cơ. Sau cùng là nên thay nguyên liệu trong lọc hàng tháng để chúng làm nhiệm vụ hiệu quả hơn.

6. Chọn một loại dụng cụ tiện lợi

Để cạo rêu bám kính thì bạn cần 1 loại dụng cụ phù hợp, có thể là chuyên dùng, hay tự làm (DIY), miễn sao bạn có thể tẩy sạch những loại rêu bám trên thành kính.

7. Tăng lượng cây trồng

Cây nhiều sẽ là đối thủ cạnh tranh nguồn dinh dưỡng, ánh sáng và làm giảm hẳn khả năng sinh tồn của rêu hại.

8. Dùng những loại cá tép ăn rêu hại

Nên có sẵn một số loại thủy vật ăn rêu hại, bỏ đói chúng, khi bạn cần tới thì hãy bỏ chúng vào hồ và đừng cho chúng ăn, kết hợp nhiều loại: ăn trên lá, dưới nền … Chúng sẽ là những công nhân vệ sinh rất hữu dụng và hiệu quả.

9. Nhận biết kẻ thù

Việc nhận biết đúng loại rêu hại trong hồ sẽ giúp bạn loại trừ hiệu quả hơn, bởi mỗi loại rêu hại cũng có những điểm riêng để diệt. VD rêu nâu bám thành kính nguyên nhân có thể là dư dinh dưỡng, ánh sáng yếu… ta sẽ thay nước, tăng sáng, trồng thêm cây… hay dùng những loại cá bám kính để lau. Hoặc rêu tóc thì hầu như ít loại cá đụng đến, ta phải dùng cách thay nước, giảm đèn …

10. Khi nào thì không cần diệt tiếp

Một lúc nào đó bạn hãy ngồi lại, ngắm nhìn hồ mình, ồh vần có ít rêu bám trên lũa, còn ít trong hốc đá, trên nền… hãy yên tâm và đừng lo lắng, bản thân rêu hại không xấu lắm, nó còn giúp tạo oxi, cân bằng dinh dưỡng. Nếu bạn thấy nó không phủ kín lá rong rêu, không bám nhiều làm mất đẹp lũa, đá hay nền sỏi… thì hãy bằng lòng với nó, chín hnó tại nên nêt tự nhiên cho hồ của bạn, Không ai có thể thật sự loại bỏ 100% rêu hại. Hãy tìm thấy nét đẹp tự nhiên khi có rêu hại trong hồ.

Một điều tối quan trọng

Khi vừa mới set-up hồ (nền mới, lọc mới) thì môi trường hồ chưa ổn định, hệ vi sinh có lợi chưa phát triển kịp nên khả năng bị rêu hại tấn công rất cao.

Nước trong hồ thủy sinh

nuoc trong ho thuy sinh

Những tính chất của nước phù hợp với hồ cây thủy sinh, việc nuôi trồng cây thủy sinh cũng giống như việc nuôi cá nói chung là phải luôn điều chỉnh môi trường nước cho phù hợp. Để điều chỉnh tính chất của môi trường nước cho phù hợp, trước tiên ta rất cần phải hiểu biết ý nghĩa của các thông số và từ chuyên môn mà cho biết chất lượng của môi trường nước. 

Nước trong hồ thủy sinh

Tính chất tự nhiên của nước

Là đặc điểm có thể nhận thấy được bằng mắt thường, hoặc có thể cảm nhận được khi tiếp xúc với nước hoặc có thể dùng dụng cụ đo để kiểm tra như độ trong, mầu sắc, hay nhiệt độ của nước.

Độ trong của nước

Là đặc điểm mà ta có thể dễ dàng quan sát thấy bằng mắt thường. Môi trường nước có chất lượng tốt đảm bảo cho hồ cây thủy sinh sẽ có độ trong cao ở cấp độ crystal clear. Độ trong của nước ở mức độ này vẫn sẽ được duy trì khi hệ thống lọc theo kiểu sinh học đi vào ổn định, vi sinh phát triển vào hệ thống lọc và trong đất nền. Trong các hồ mới set up nếu không bổ sung vi sinh thì có thể phải mất 6-8 tuần hệ thống vi sinh mới có thể làm việc tốt được.

Màu sắc của nước

Điều này sẽ phản ánh cho thấy có chất nào đang hòa tan trong nước hay không. Vì bình thường nếu hệ thống lọc nước họat động có hiệu quả và nước được thay thường xuyên thì không cần phải lo lắng có chất đọc từ những tạp chất hòa trộn trong nước hay không. Những mầu sắc của nước thường gặp ở đây có mầu vàng do gỗ mà ta dùng để trang trí hồ thủy sinh tạo ra, tan trong nước, mặc dù không gây tác hại trực tiếp cho thực vật thủy sinh nuôi trong hồ nhưng lại gây mất thẩm mỹ cho hồ nuôi trồng, ngoài ra còn làm cho ánh sáng phản chiếu vào nước yếu đi so với bình thường. Để hạn chế tình trạng nước bị vàng do gỗ trang trí hồ gây ra, ta có thể sử dụng than hoạt tính(Activated carbon) cho vào máy lọc nước để cải thiện mầu sắc của nước. Đây được xem là một phương pháp có hiệu quả tốt.

Nhiệt độ của nước

Cũng là một yếu tố quan trọng trong quá trình nuôi trồng thực vật thủy sinh. Mặc dù thực vật thủy sinh phần lớn có thể nuôi trong môi trường nước có nhiệt độ lên đến 30 độ C, nhưng theo kinh nghiệm cho thấy, ở nhiệt độ từ 26 – 28 độ C, cây thủy sinh sẽ tạo ra kiểu dáng đầy đủ và khỏe hơn và có thể nuôi trồng được đa dạng hơn các lọai thực vật thủy sinh.

Phân nền dạng viên của ADA cho hồ thủy sinh

ADA thiết kế nền có 1 phong cách riêng của nó. Lọai phân nền này cung cấp chất dinh dưỡng cho cây phát triển tốt, ổn định độ pH trong nước, đây là đặc trưng riêng cho sản phẩn này vì nó giúp người chơi mô phỏng màu của dòng sông Amazone.

Phân nền ADA có tất cả là 4 loại aquasoil chính: 

  • Amazonia I
  • Amazonia II
  • Malaya
  • Africana

Trong 4 loại kể trên chỉ có Amazonia I là khiến nước có màu trà trong sau khi setup. Còn các loại khác thì không. Mỗi loại aquasoil dành riêng setup mô phỏng một vùng thổ nhưỡng sinh thái khác nhau. Malaya và Africana không hề làm nước có màu trà… mà trong vắt như pha lê chỉ sau 1 giờ setup!

Phân nền

Amazonia

Hạt phân có màu đen. Lọai phân nền này cung cấp chất dinh dưỡng cho cây phát triển tốt, ổn định độ pH trong nước, nhưng đôi khi chúng ta thấy nước ngã sang màu vàng do một thành phần trong phân nền đó chính là humus acid, đây là đặc trưng riêng cho sản phẩn này vì nó giúp người chơi mô phỏng màu của dòng sông Amazone.

Malaya

Hạt phân có màu vàng nhạt giúp cho bạn có một cái nhìn tự nhiên hơn trong cảnh hồ. cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cho cây phát triển trong thời gian dài

Africana

Hạt phân có màu nâu đỏ giúp bạn mô phỏng phong cảnh của những cánh rừng mưa nhiệt đới Châu Phi. Hạt phân cứng hơn, lượng dinh dưỡng nhả chậm hơn so với hai lọai trên, thích hợp cho các lọai cây phát triển chậm

Vì thế, trước khi làm nền, người ta vẫn thường xét đến mục đích sử dụng để chọn loại nền hợp lý, nhưng ở Việt Nam người chơi Thuỷ sinh thường sử dụng loại màu đen, có lẽ màu này làm nổi bật màu sắc cây, cá. 

Dùng phân nền dạng viên của ADA: Loại này tốt, setup bể đơn giản và bể mau ổn định nhưng giá thành cao.

a. Liều lượng :

  • Phân ADA: 10 – 12kg
  • Nham thạch: 10kg
  • Khoảng 5kg sỏi trứng dùng để độn cho đỡ tốn ADA

b. Cách làm :

  • Rửa sạch sỏi, nham thạch, tuyệt đối không rửa phân ADA
  • Rải đều nham thạch vào bể
  • Rải sỏi trứng lên trên lớp nham thạch, bạn nên độn những khu vực nào cần tạo mấp mô.
  • Rải ADA lên trên cùng và cũng không cần phải rải những chỗ dự định xếp đá, gỗ.

Hồ thủy sinh

Giới thiệu hồ thủy sinh

Hồ thủy sinh (Aquascaping) là một hình thức nghệ thuật của những người đam mê nuôi sinh vật trong hồ nước. Bộ môn này là kỹ thuật sắp xếp, bố trí các cây thủy sinh (aquatic plants) cùng với đá (rocks, stones), hang, gỗ, lũa (driftwood) một cách thẫm mỹ và khoa học trong một bể nước.

Hồ thủy sinh

Thông thường, một hồ thủy sinh bao gồm cá và cây trồng, ngoài ra chúng ta có thể có một hồ thủy sinh chỉ có cây, hoặc thậm chí chỉ có đá (rockwork) hoặc hardscape và không có cây. Mặc dù một người chơi thủy sinh chủ yếu nhắm tới tạo ra một phong cảnh nghệ thuật dưới nước, họ còn phải quan tâm đến các khía cạnh kỹ thuật của việc chăm sóc và phát triển cây thủy sinh. Lọc nước, việc cung cấp CO2 ở mức độ nhất định cho sự quang hợp dưới nước, chất nền, phân bón, ánh sáng và kiểm soát tảo là những yếu tố trong nhiều yếu tố khác cần phải được cân bằng trong một hệ thống khép kính của bể nước.

Làm giàu chất nền hồ thủy sinh

nền hồ thủy sinh

Để làm tăng sự phì nhiêu của lớp chất nền dành cho những loại cây phải bón nhiều như cây họ Swords và cây họ Crypts, hãy chuẩn bị những viên đất sét cỡ 1/2 inch cùng với 10 viên bón loại 14-14-14. Hãy rang khô cho đến khi chúng cứng lại và đặt 1 hoặc 2 viên vào trong lớp chất nền gần rễ của những cây cần nhiều phân bón. Làm lại khi cần thiết và nếu tốc độ phát triển của cây trở nên chậm (khoảng 6 tháng). Lấy khoảng 1/2 thìa cà phê đất sét làm được một viên đất sét cỡ 10 mm (1/2 inch). Mỗi viên đất sét sẽ có khoảng 70 mg ni-tơ, tương đương với 300 mg ni-trat và khoảng 70 mg a-xít phốt-pho-ric (P2O5). Ước tính mỗi thìa cà phê có 113 viên, nặng khoảng 5,7 gam.

chất nền hồ thủy sinh

Lưu ý

GH hoặc tổng độ cứng (General Hardness) là một cách đo số lượng can-xi và ma-nhê có ở trong nước tự nhiên. Một độ GH tương đương với 17,9 mg/1 lít CaCO3. Do đó nếu bạn có gần 70 mg/lít hoặc 70 phần triệu (70 ppm) lượng CaCO3 trong nước từ vòi nước của bạn, thì bạn không cần phải bổ xung thêm can-xi. Thể hiện nồng độ cô đặc của can-xi là tương đương khoảng 30 mg/1 lít can-xi. Một thìa cà phê (5 mg) cac-bon-nat can-xi nặng 4 gam. Một thìa cà phê cho 50 lít nước sẽ cho bạn nồng độ 80 mg/lít. Một số nguồn khác lại cho rằng 1 thìa cà phê CaCO3 trong mỗi 50 lít nước sẽ cho một nồng độ khoảng 40 mg/lít do có thể là mẫu mà thực tế cân thử cho thấy sẽ nặng hơn bởi vì chúng hút nước ở không khí vào. Sau thời gian này bạn nên kiểm tra lại để có thêm thông tin.

Các nguồn hoá chất

  • Tại các trung tâm làm vườn lớn đều có rất nhiều các loại hoá chất và những thứ như sắt vi lượng (micronized iron) và các nguyên tố tan chảy F-T-E (Fritted Trace Elements).
  • Các hiệu thuốc có thuốc tẩy ma-nhê và bạn có thể đặt hàng rất nhiều loại hoá chất cho mình.
  • Các cửa hàng đại lý cung cấp đồ gốm sứ đều có cung cấp rất nhiều cac-bon-nat can-xi.
  • Các cửa hàng cung cấp cây thuỷ sinh thường có nhiều loại phân hoá học.

Các chú ý khi làm giàu chất nền hồ thủy sinh

1. Việc sử dụng sắt vi lượng (micronized iron) cùng với than bùn cần phải được xem xét thực nghiệm bởi vì sắt được cô đặc lại và ở dưới dạng có sẵn cao. Kinh nghiệm cho thấy rằng sắt bùn chelated (humic chelated iron) được giải phóng ra khỏi lớp chất nền nhưng không phải ở một mức độ có thể tạo ra những trở ngại nghiêm trọng (hiện tượng rêu). Những loại cây: Cryptocorynes, Hygrophila, Polysperma, Bacopa, Rotala, Aponogeton crispus, Saggitaria, Echinodorus và Heteranthera zosterifolia không cho thấy có các dấu hiệu nhiễm độc sắt. Đề nghị các bạn nên dùng loại đất bình thường trước tiên mà không có sắt vi lượng. Nếu các bạn sử dụng sắt vi lượng (micronized iron), thì hãy dùng hết sức ít. Nên lưu ý đến những cảnh báo này đảm bảo rằng những loại rêu – tảo có nhiều sợi nhỏ không đưa được vào trong bể thuỷ sinh của bạn. 

2. Chất hữu cơ và đất phì nhiêu chỉ được dùng trong lớp chất phủ mỏng (1 inch) gần với tầng bề mặt bởi vì lớp chất phủ sâu hơn sẽ nhận được ít khí ô-xy khuếch tán hơn từ trên tầng bề mặt và sẽ trở nên quá chậm trong khả năng biến đổi (reduction potential) quá trình khử và ô-xy hoá do đó sẽ tạo ra độc tố do các hoạt động của vi khuẩn kỵ khí. Một lớp phủ dày 1 inch là đủ để tạo khả năng biến đổi nhằm đảm bảo một nguồn cung cấp lâu dài sắt hoà tan và sắt khử (reduced and soluble iron). Xin tham khảo phần kỹ thuật về các loại nguyên liệu của lớp chất nền để trao đổi thêm về khả năng khử và ô-xy hoá đó (redox potential).

3. Các lớp chất nền bằng đất và/hoặc than bùn đã được rất nhiều người sử dụng trong một thời gian dài ngay từ khi bắt đầu trồng và chơi cây thuỷ sinh nên vì thế xem như chúng đã được thử thách. Bài viết này có mục đích như là một thủ tục chi tiết của việc làm thế nào tạo dựng an toàn một bể cá có đất đai màu mỡ. Cần phải luôn nhớ rằng ở một mức độ nào đó đất sẽ thay đổi thành phần . Một kế hoạch tốt là luôn cần phải lưu giữ mọi ghi chú và cân đo khối lượng các chất mà các bạn dùng để tham khảo sau này. Những ghi chép về việc đo kiểm tra thường xuyên nồng độ a-mô-ni-ắc, ni-trat, phốt-phat và sắt cũng sẽ rất bổ ích về mặt thực nghiệm.

4. Khi nào thì đất quá màu mỡ? Các loại đất được đóng trong bao mà các bạn mua tại các trung tâm bán dụng cụ làm vườn (garden conters) thường có quá nhiều chất dinh dưỡng và chất hữu cơ. Đất tốt nhất cho lần sử dụng thử đầu tiên của bạn là loại đất quặng mà bạn đào lên được từ những chỗ đất có vị trí thoát nước tốt, nơi có cỏ mọc tốt trong nhiều năm liền. Đất đó sẽ lọc tốt các chất dinh dưỡng hoà tan. Nếu các bạn thực sự muốn có các loại cây phát triển mạnh, các bạn có thể dùng nhiều chất hỗn hợp màu mỡ hơn nhưng các bạn sẽ gặp phải vấn đề khó khăn do rêu – tảo. Khí a-mô-ni-ắc cũng sẽ được giải phóng ra từ lớp chất nền màu mỡ trong thời gian khoảng một tháng sau khi được ngập chìm trong nước. 

5. Nếu bạn cảm thấy rằng đất trong khu vực của mình không thích hợp và bạn quyết định dùng loại đất đã được đóng gói bất kể có độ màu mỡ cao, tiếp đó bạn nên trộn đất này với một khối lượng lớn cát.

6. Nếu bạn có nước cứng và không bổ sung ban đầu một lượng cac-bon-nat can-xi, hãy thường xuyên thay nước để đảm bảo có đủ can-xi. Than bùn đã thẫm đẫm can-xi. Việc thay nước thường xuyên cũng giúp ngăn ngừa tạo ra a-xít humic và sắt bùn chelate (humic chelated iron) trong nước của bạn mà chúng có thể xuất hiện trong một vài tháng đầu tiên.

7. Nếu bạn biết được rằng nước trong vòi của mình có chứa trên 10 phần triệu hàm lượng ma-nhê, các bạn có thể bỏ qua không cần thuốc tẩy ma-nhê ở trong phân bón. Cũng giống như vậy đối với ni-trat (+10 phần triệu) và ka-li (+10 phần triệu). Hàm lượng can-xi trên 50 phần triệu là đủ.

8. Một số loại đất lại cũng có chứa cac-bon-nat can-xi hoặc sun-phát can-xi cũng như ma-nhê. Đây là những loại đất đá vôi (limestone soils) và hoàn toàn có tính kiềm (alkaline). Bạn có thể kiểm tra một mẫu đất ở trong nước để biết độ pH hoặc dùng a-xít để kiểm tra. Với than bùn thì những loại đất như thế này sẽ không phải là một vấn đề khó khăn bởi vì độ a-xít humic của than bùn (humic acidity of peat) sẽ cung cấp một lượng pH ổn định và giúp hấp thụ một lượng can-xi và ma-nhê dư thừa. Những loại đất như thế này thường thiên về khả năng thiếu sắt hơn.

9. Ban đầu, trong thời gian hai tháng đầu tiên, một số loại đất sẽ giải phóng một khối lượng đáng kể các chất dinh dưỡng như ni-trat, a-mô-ni-ắc, phốt-phat và sắt
. Việc giải phóng chất dinh dưỡng cao nhất ở trong khoảng 4 tuần và sau đó giảm xuống nhanh chóng cho đến khi nó gần như ổn định sau 10 tuần. Điều này có thể gây ra một vài vấn đề khó khăn với rêu – tảo ví dụ như tảo đốm xanh xuất hiện trên lá cây. Một số trong số những vấn đề khó khăn này có thể tránh được bằng cách để đất trong một chiếc xô hoặc chậu với dung tích 5 gallon có nước trong vài tuần để giải phóng phần lớn khí ni-tơ và các chất dinh dưỡng phốt-phat. Rút hết nước trong đất ra trước khi trộn chúng với than bùn và sắt vi lượng (micronized iron). Than bùn cũng có thể được xử lý bằng phương pháp giống như vậy để giảm bớt nồng độ a-xít humic được giải phóng ra trong thời kỳ chuyển hoá. Khi trộn ướt như thế này, chắc chắn là bạn phải đổ nước đầy bể và tháo nước ra ngay trước khi cho nước mới vào và trồng cây bởi vì than bùn và đất ướt có chứa những chất dinh dưỡng mà có thể được giải phóng một cách nhanh chóng. Hãy cân trọng lượng của than bùn khi chúng khô bởi vì tỷ lệ trọng lượng khô là rất quan trọng. 

10. Phương pháp đo khoáng chất dinh dưỡng đã được mô tả ở trên vẫn có thể được sử dụng nếu lớp chất nền không chứa sắt và chất hữu cơ. Trong trường hợp này, một thìa cà phê pha trộn các chất vi lượng chelated (chelated trace elements mix) cần được cho thêm vào để pha trộn với 3 cốc nước. Số lượng này sẽ cung cấp được khoảng 0,1 phần triệu lượng sắt che-lat (chelated iron) khi được pha trộn theo đúng chỉ dẫn. Có thể sẽ cần thiết phải chuẩn bị một lượng riêng dung dịch các vi chất dinh dưỡng che-lat (chelated trace nutrients) (chủ yếu là sắt) là những thứ mà cần được bổ xung thường xuyên hơn nữa theo đúng như phương pháp PMDD. Các khoáng chất dinh dưỡng không cần phải được pha trộn thường xuyên bởi vì các chất dinh dưỡng này không mất đi theo thời gian.