Ảnh thứ 2 chụp bằng ống kính macro. Những đốm tảo có kích thước dưới 1/2mm.Tảo đốm xanh ưa sáng mạnh, thường xuất hiện trên mặt kính hồ hay trên mặt lá các loại mọc chậm bị trồng ở vị trí nhiều sáng (phơi sáng). Loại tảo này sẽ xuất hiện khi lượng CO2 và Phosphate (PO4) thấp.
Vì loại rêu này bám khá chắc và cứng, các loài ăn rêu chẳng giúp ích gì nhiều. Chỉ có một loài ốc mang tên Neritina zebra snail (Neritina natalensis) là có thể gặm nổi thứ rêu này. Nhưng tiếc rằng loài ốc này sẽ trở nên èo uột ở môi trường có PH dưới 7, vì chúng cần môi trường kiềm để vỏ của chúng cứng cáp. Các loại cá Chạch (Loaches) và cá Rô (Cichlidae) thích ăn loại ốc này.
Có thể dùng dao lam cạo sạch loại tảo này trên mặt kính, nhưng với hồ kính đúc bằng nhựa acrylic thì chỉ được dùng lưỡi dao nhựa (plastic) để tránh sước kính. Nếu chúng xuất hiện với số lượng ít thì bình thường thôi. Chỉ nên quan tâm khi số lượng trở nên quá lớn. Để phòng ngừa loại rêu tảo này, nên thay nước hằng tuần, không nên cho cá ăn quá nhiều hoặc thả quá nhiều cá. Trong hồ thủy sinh nên đưa các loại cây mọc chậm vào chỗ khuất sáng và luôn giữ hàm lượng phosphate trong nước ở mức 0.3-0.5ppm và CO2 ở mức 30ppm.
Đây thường là hệ quả của hiện tượng đục nước kéo dài trên 10 – 14 ngày. Nên nhớ là hiện tượng nước có màu xanh do tảo lục gây ra này không phải lúc nào cũng giống nhau. Vì đây là vấn đề rất thường xảy ra và khó giải quyết, nên cũng có nhiều biện pháp khắc phục để ta cân nhắc, lựa chọn.
Hoàn cảnh – điều kiện dẫn đến việc nước bị đục và có màu xanh này thường là do tình trạng phú dưỡng của môi trường nước: hàm lượng nitrate, phosphate cao cộng thêm sự hiện diện của ammonia/ammonium. Việc xáo trộn nền thường là nguyên nhân dẫn đến hiện tượng trên. Trong điều kiện phú dưỡng của môi trường, loại tảo lục sẽ phát triển rất mạnh, cần nhớ rằng rêu tảo hấp thu phosphate dễ dàng hơn cây thủy sinh nhờ vào thành tế bào rất mỏng của chúng. Tảo lục sẽ nhanh chóng hấp thu hết ammonia/ammonium và phosphate, nhưng sau đó chúng không tàn lụi đi mà sẽ chuyển qua hấp thu các loại dinh dưỡng khác như nitrate. Vì vậy bạn sẽ hiểu tại sao thay nước không giải quyết được vấn đề tảo lục. Khi tảo lục bộc phát, nguồn dinh dưỡng trong nước nhanh chóng giảm thấp do bị hấp thu mạnh, nhưng sau đó tảo lục có thể quay sang hấp thu các chất khác như sắt và các nguyên tố vi lượng khác. Vì vậy, thường người ta tìm cách khắc phục từ căn nguyên của vấn đề, nhưng vẫn không tài nào hạn chế được tảo lục phát triển do những lý do mà tôi đã đề cập đến.
Có 5 biện pháp để xử lý – khống chế hiện tượng nước xanh do tảo lục:
Tắt đèn
Dùng máy lọc tảo cát
Chiếu xạ bằng tia cực tím (UV)
Phù du phiêu sinh
Thuốc diệt tảo/chất kết dính, kết tủa
4 biện pháp đầu không gây hại cho cá, biện pháp thứ 5 thì ngược lại.
1. Tắt đèn và che kín hoàn toàn hồ thủy sinh
Áp dụng trong thời gian 4 ngày bằng khăn trùm, hoặc giấy dán có màu sẫm…phải chuẩn bị tinh thần là, nước sẽ bị ô nhiễm do xác tảo lục chết, phân hủy trong quá trình diệt tảo này. Do vậy, phải thay nước lúc trước và sau quá trình diệt tảo theo phương pháp ngăn ánh sáng này, và cũng phải kiểm tra hàm lượng ammonia sau khi thay nước.
2. Dùng máy lọc tảo cát
Đây là cách mà tôi thích áp dụng. Tôi thường dùng máy lọc tảo (Diatom filter) Magnum 350w/Micron với bột tảo cát. Kiểu lọc này sẽ loại bỏ sạch sẽ tảo lục, không gây mất cân bằng hệ vi sinh, không có chuyện xác tảo lục còn nằm lại phân hủy gây ô nhiễm. Nếu hồ bạn bị tảo lục nặng thì nên kiểm tra lọc liên tục để phòng ngửa lọc bị nghẹt. Chỉ việc làm vệ sinh rồi cho lọc chạy tiếp. Để trả nước hồ về trạng thái trong xanh lchỉ là vấn đề vài phút hoặc cao lắm là vài giờ tùy theo kích thước hồ và tình trạng rêu tảo.
Để hiểu thêm về máy lọc tảo cát (Diatom filter) tham khảo link này: http://www.aquariumguys.com/diatomfilter.html
3. Chiếu xạ bằng tia cực tím (UV)
Chiếu xạ thanh trùng bằng tia UV (tia cực tím, tia tử ngọai) sẽ không những diệt tảo mà còn diệt cả phiêu sinh và các loại khuẩn trong nước. Nếu thường xuyên sử dụng phương pháp này thì hồ thủy sinh của bạn sẽ có vấn đề (về biến dưỡng) do hao hụt một vài dưỡng chất quan trọng. Khá tốn kém nhưng không giải quyết được vấn đề xác tảo chết phân hủy gây ô nhiễm nước. Nếu bạn có khả năng sắm máy thì có thể áp dụng…nhưng dĩ nhiên là không hiệu quả bằng máy lọc tảo (Diatom filter).
4. Phù du phiêu sinh
Thả một loại sinh vật phù du có tên là Daphnia (thủy trần, bo bo?) vào hồ để chúng ăn tảo lục. Cách này hơi khó một chút. Thứ nhất, bạn phải chắc rằng ngòai Daphnia ra bạn không đưa kèm mấy thứ không mong muốn khác vào hồ. Thứ hai, bạn phải cách ly đàn cá khỏi hồ, nếu không bọn cá sẽ nhậu sạch sẽ đám Daphnia này trước khi chúng có thể thi hành công vụ được.
Xem link: http://en.wikipedia.org/wiki/Daphnia
5. Thuốc diệt tảo/chất kết dính, kết tủa
Tôi không thích cái cách cuối này lắm. Thuốc diệt tảo có thể gây ngộ độc cho cá, còn chất kết dính/kết tủa thì dính vào mang cá, tuy không làm chết cá nhưng làm giảm chức năng hô hấp của cá khiến chúng yếu sức dễ nhiễm các loại bệnh cơ hội.
Không có hồ nào mà không có sự hiện diện rêu tảo hại cả! Một hồ không bao giờ có rêu tảo xuất hiện có thể là một hồ có môi trường không tốt cho cá. Bạn không thể hoàn toàn ngăn chặn sự phát triển của bất cứ loại rêu tảo nào, nhưng với những cách xử lý thích hợp, thì có thể giảm thiểu, khống chế chúng.
Trong bài này, ta có thể thấy rằng để kiểm soát rêu tảo ta phải kiểm soát được dinh dưỡng trong môi trường. Nhưng phải nhớ một điều, có sự khác biệt trong xử lý – kiểm soát rêu tảo cho hồ cá và hồ thực vật thủy sinh.
Hồ cá cảnh (không trồng rong)
Sự bùng phát rêu tảo hại là kết quả của tình trạng dư thừa nitrate, phosphate and ammonia/ammonium trong môi trường nước. Việc cho ăn quá mức hoặc thả cá quá nhiều là nguyên nhân thông thường nhất khiến nước bị ô nhiễm. Việc thay nước hằng tuần là biện pháp tốt nhất để giảm lượng dinh dưỡng thừa. Để kiểm soát được môi trường tránh rêu tảo thì hàm lượng ammonia (NH3), ammonium (NH4), và nitrite phải bằng 0ppm, hàm lượng nitrate (NO3) phải ở dưới mức 10ppm (hàm lượng nitrate ở trên mức 40ppm có hại cho cá và các loài nhuyễn thể). Phosphate (Po4) phảI được duy trì ở mức dưới 0.5ppm. Thời lượng chiếu sáng phải không hơn 10 tiếng một ngày. Nên nhớ rằng rêu tảo hại rất thích ánh sáng mạnh, nên việc đặt hồ xa cửa sổ là ý tưởng tốt. Ánh sáng trời chiếu trực tiếp vào hồ sẽ gây ra sự bùng phát rêu tảo hại đấy. Đội quân ăn rêu (cá/tép/ốc) sẽ giúp ta nhiều trong trận chiến diệt rêu.
Hồ thực vật thủy sinh
Sẽ phức tạp hơn nhiều vì trong hồ rong ta không chỉ phải lo cho cá mà còn phải lo cho cây nữa. Thật ra thì cây thủy sinh sẽ hấp thu ammonia/nitrite/nitrAte/phosphate và giữ cho chất lượng nước luôn tốt. Nhưng điều gì xảy ra khi đột nhiên bạn gặp phải một trận dịch rêu tảo tệ hại nhất bùng phát trong hồ thủy sinh của bạn? Bạn sẽ gào lên: Làm sao ra nông nỗi này !
Hãy bắt đầu với một thực tế là cả cây thủy sinh lẫn rêu tảo đều cần cùng loại dinh dưỡng như nhau để phát triển. Sự mất cân bằng giữa các yếu tố ánh sáng, CO2, nguyên tố đa lượng, vi lượng sẽ dẫn đến sự phát triển rêu tảo hại. Như bạn cũng biết, khi cây thủy sinh được cung cấp đầy đủ và cân bằng các yếu tố kể trên, chúng sẽ hấp thu dinh dưỡng có trong môi trường nước nhanh hơn rêu tảo hại. Không ai lạ gì về khả năng khống chế rêu tảo tuyệt vời của các loại cây thân đốt (cắt cắm) mọc nhanh nhờ khả năng hấp thu dinh dưỡng nhanh và mạnh của chúng. Nhưng khi một trong các yếu tố, nguyên tố kể trên bị thiếu hụt thì sự chuyển hóa, trao đổi chất của cây thủy sinh sẽ giảm và chúng sẽ chết dần. Dĩ nhiên cây thủy sinh sẽ cho thấy những dấu hiệu suy dưỡng của chúng như vàng lá, rỗ lá, vân vân. Nếu ta không kịp thời bổ sung các yếu tố cần thiết này thì dù có trồng thêm cây thân đốt mọc nhanh để không chế rêu hại thì cũng chưa đủ. Chỉ có cây thủy sinh khỏe mạnh, đầy đủ dinh dưỡng mới khiến cho hệ sinh thái cân bằng.
Rêu tảo hại là thực vật bậc thấp, thường chỉ hấp thu nguồn dinh dưỡng thừa của cây thủy sinh bậc cao, nhưng khi hệ sinh thái mất cân bằng do các nguyên nhân kể trên, chúng sẽ tranh thủ nguồn dinh dưỡng và nhanh chóng phát triển. Vì vậy việc ta cần làm là đảm bảo cho cây thủy sinh của ta được cung cấp đủ ánh sáng, CO2, các nguyên tố đa lượng, vi lượng. Liều lượng phân bón – dinh dưỡng sẽ tùy theo chất lượng, cường độ của hệ thống chiếu sáng mà gia – giảm.
Hồ ánh sáng yếu
Những hồ có mức độ chiếu sáng trong khoảng 1-2w/gallon. CO2 có thể từ bình lên men tự chế (DIY) rẻ tiền. Phân bón như Tropica Master Grow rất tốt để bổ sung các nguyên tố vi lượng như FE, Mg, Zn, B, S, Mn, Cu, Mo và K. PMDD (Poor Man Dosing Drops) là phân đa lượng rất tốt dùng bổ sung nitrates, phosphates, Potassium and các chất khác. Nó được chế từ KNO3, KH2PO4 and NutriSI mikro.
Ghi chú: Vì Sắt (Fe) là nguyên tố cần thiết nhất cho thực vật thủy sinh, nên chất nền (substrate) của hồ thủy sinh phải hàm lượng sắt kha khá. Việc bổ sung sắt quá liều bằng dung dịch (phân nước) có chứa sắt sẽ thúc đẩy rêu tóc (hair algae) phát triển. Nên bổ sung sắt cho hồ thủy sinh bằng phân dạng nhét, hoặc sỏi đá ong (laterite) hay sỏi khóang flourite cho an toàn. Hồ set up với ánh sáng yếu có bổ sung CO2 với lượng vừa phải bằng bình lên men DIY (1 bình cho mỗi 90 lít nước dung tích hồ) thì nên bổ sung phân bón mỗI tuần 1 lần. Tôi sử dụng cả 2 loại PMDD và Tropica Master Grow. Đối với cây cắt cắm thân đốt trong hồ dạng này (ánh sáng yếu) thì cần phải cắt tỉa mỗi một hoặc 2 tuần 1 lần. Bạn sẽ thấy có nhiều bạn chơi set up hồ dạng ánh sáng yếu – kỹ thuật thấp (low light – low tech) và chỉ thay nước mỗi 3-4 tháng (yêu cầu bảo dưỡng thấp). Để có thể chăm sóc thành công những hồ dạng này thì điều rất quan trọng là phải dùng nền giàu sắt. Có người xài than bùn dạng viên, có người dùng đất sét hoặc sỏi đá ong laterite/sỏi khóang fluorite, và có ngườI lạI pha trộn nhiều thứ chất nền với nhau. Điều quan trọng là phải phủ sỏi lên lớp nền giàu dinh dưỡng này với chiều dầy khỏang 1.5 inch để giữ cho nước trong và nền dinh dưỡng bên dưới không tiếp xúc với rêu hại. Phân nước phải được bổ sung hằng tháng, chỉ một nửa liều lượng mà nhà sản xuất khuyên dùng thôi. Sau đó nếu thấy cây cố có dấu hiệu suy kiệt thì bổ sung theo đúng lượng được khuyên dùng của nhà sản xuất. Hồ kỹ thuật thấp, yêu cầu bảo dưỡng thấp thì không nên bổ sung CO2. Đó cũng là lý do tại sao phải điều chỉnh cho dòng chảy ngõ bơm nước trở lại hồ của máy lọc thật êm nhẹ (để hạn chế thất thóat hàm lượng CO2 ít ỏi trong nước). Cây trong hồ dạng này sẽ mọc rất chậm và ít cần cắt tỉa.
Hồ ánh sáng mạnh
Những hồ có mức chiếu sáng từ 3w/gallon trở lên rất cần bổ sung nhiều CO2 và các nguyên tố đa, vi lượng để đáp ứng nhu cầu cao của cây thủy sinh trong điều kiện ánh sáng cao. Phải nghĩ đến việc trang bị bình khí nén CO2 nếu muốn cây khỏe, hồ sạch. Mọi thứ dinh dưỡng, phân bón gần như phải được cung cấp – bổ sung tương tự như với hồ ánh sáng yếu, nhưng lượng phải tăng gấp đôi, hay thậm chí gấp 3 lần. Với hồ set up dạng ánh sáng mạnh, phải thường xuyên kiểm tra duy trì hàm lượng CO2 luôn ở mức 30ppm.
Trong cả 2 dạng hồ ánh sáng yếu và mạnh, lượng nitrate phải được duy trì ở mức 10-15ppm và phosphate là 0.5ppm. Xin nhắc lại 1 lần nữa vì điều này quyết định đến 95% việc xử lý vấn nạn rêu hại…đó là nên duy trì lượng CO2 ở mức cao (30ppm)…hình như ở điều kiện như vậy rêu hại sẽ bị khống chế. Dĩ nhiên các loài ăn rêu như Siamese Algae Eater (SAE), Otos, tép Amano, ốc Trompet Mã Lai…là những vị khách luôn được mong đợi. Cắt tỉa cây cũng là biện pháp tốt vì sẽ kích thích cây ra chồi mới mạnh khỏe, loại bỏ lá già không cho chúng chết và phân hủy trong nước gây ô nhiễm. Và xin nhớ cho rằng, biện pháp hạn chế giảm thiểu dinh dưỡng trong nước là việc đúng đắn để kiểm soát không chế rêu cho hồ cá. Nhưng sẽ hết sức bậy bạ khi áp dụng điều đó vào việc xử lý – khống chế rêu cho hồ thực vật thủy sinh. Đối với hồ có ánh sáng mạnh, phải thay nước mỗi tuần khoảng 25-30%.
Ghi chú: Có rất nhiều bài trên internet nói rằng giảm hàm lượng nitrate và phosphate sẽ giúp hạn chế rêu hại !!! Với hồ không trồng cây thủy sinh thì VÂNG ! Nhưng vớI hồ thực vật thủy sinh thì XIN CAN ! Cây thủy sinh cần nhiều dinh dưỡng hơn rêu hại để tồn tại và phát triển, vì vậy không nên giảm và phải tăng dinh dưỡng cho chúng
Triệu chứng: Cây yếu đuối – èo uột, lá có màu nhợt nhạt, lá nhiều phiá ngọn, càng gần gốc càng ít lá. Thân và cuống mục rữa, chồi yếu.
Biện pháp xử lý: Thêm đèn! Tăng thời lượng chiếu sáng lên 10 đến 12 tiếng/ngày.
Nền
Triệu chứng: Bọt khí thoát ra từ nền khi bạn dùng que chọc xuống nền, các loại ốc chuyên đào nền (ốc trumpet mã Lai…) thôi không chui xuống nền nữa mà trồi đầu lên, khi nhổ thử vài cây lên thấy hệ rễ kém phát triển hoặc chuyển qua màu đen và rữa.
Biện pháp xử lý: Nền bị nén quá chặt, bị nghẽn do chất cặn – thải lắng đọng len lỏi vào giữa những khe hở cuả hạt nền…trong quá trình thay nước, xới nền lên nhè nhẹ và dùng ống xi phông hút cặn thải ra.
Thiếu oxy trong nước
Triệu chứng: Cá bị stress, bơi lật nghiêng, ngáp hơi trên mặt nước. Nếu tình trạng kéo dài, cây cối trở nên còi cọc.
Nguyên nhân: Do thiếu sáng hoặc thiếu dinh dưỡng làm cây chậm lớn, giảm phóng thích oxy vào môi trường nước do giảm quang hợp, giảm chuyển hoá nitơ. Hoặc có thể do bổ sung quá nhiều CO2 vào hồ (trên 30ppm).
Biện pháp xử lý: Điều chỉnh hệ thống ánh sáng (tăng sáng), kiểm tra lọc (vệ sinh lọc), kiểm tra hệ thống CO2 (giảm nếu quá nhiều), tăng cường dòng chảy, bổ sung dinh dưỡng (phân nước, phân nhét).
Thiếu potassium
Triệu chứng: Rìa lá non bị vàng, có vết ố vàng như rỉ sắt (bệnh uá vàng), lá già bị vàng và nhăn.
Biện pháp xử lý: Bổ sung potassium (có thể xài Balance K và Aquatilizer của hãng Ferka chẳng hạn)
Cây thủy sinh bị vàng lá, úa lá
Triệu chứng: Lá cây thủy sinh bị vàng úa, dòn – dễ đứt, nát, thủng lá
Nguyên nhân: Thiếu sắt, thiếu potassium, nước quá cứng.
Biện pháp xử lý: Bổ sung sắt, potassium, làm mềm nước.
Thiếu phosphore (lân)
Triệu chứng: Cây rụng lá sớm, tuột lá
Biện pháp xử lý: Bổ sung phân nước tổng hợp NPK có thành phần phosphate (có thể xài Aquatilizer cuả Ferka)
Thừa phosphore
Triệu chứng: Tảo hại bộc phát, nước dơ, váng…
Biện pháp xử lý: Thay nước thường xuyên hơn, vệ sinh nền (dùng xi phông hút cặn thừa lắng đọng dưới nền), không cho cá ăn quá nhiều, ngưng hoặc giảm bổ sung phân bón các loại cho cây.
Thiếu calci
Triệu chứng: Lá mới bị hư và rụng sớm, cuống lá vàng uá.
Biện pháp xử lý: Bổ sung calci! Coi chừng nhiều quá sẽ gây cứng nước!
Thiếu Magnesium (ma nhê)
Triệu chứng: Lá già bị đốm vàng, khi tình trạng kéo dài, cây thuỷ sinh trở nên bị còi cọc, gân lá vẫn xanh, nhưng những phần còn lại chuyển vàng. Đốm nâu xuất huyện và cây khô héo dần. Nếu cây đang ra hoa, hoa sẽ chậm phát triển hoặc thui luôn.
Biện pháp xử lý: Bổ sung magnesium!
Thiếu đạm (nitơ)
Triệu chứng: Lá già chuyển vàng. Cây còi cọc nhưng bộ rễ lại rất to. Lá nhỏ đi và màu sắc nhợt nhạt, cây chậm lớn. Màu sắc nhợt nhạt bắt đầu từ chỏm (đầu) những lá bên dưới (lá già). Nếu tình trạng thiếu hụt kéo dài, tán lá vẫn tiếp tục phát triển, nhưng thân cây trở nên khẳng khiu, mềm oặt, quá trình ra hoa sẽ chậm lại, cây dễ nhiễm bệnh.
Biện pháp xử lý: Bổ sung nitrate (N)!
Bệnh rữa lá của cây họ Cryp
Triệu chứng: Bệnh chỉ xảy ra với các cây họ cryptocorynes. Ban đầu xuất hiện những lỗ nhỏ trên lá rồi lan rộng ra toàn bộ lá, rữa lá. Cây rữa hoàn toàn, chỉ còn củ và bộ rễ.
Nguyên nhân: Có thể là thừa nitrate trong môi trường, nhiệt độ giảm đột ngột, môi trường thay đổi ngột, di chuyển vị trí cây trong hồ quá thường xuyên.
Biện pháp xử lý: Thay nước đều đặn với lượng nhỏ 5-10% mỗi ngày để giữ môi trường ổn định. Để yên cây không dời chuyển nữa, từ từ lá mới sẽ mọc lại từ củ – rễ.
Để giúp những bạn mới bước vào thế giới thực vật thủy sinh, tôi xin chọn ra 3 điều sai lầm chính mà những người mới chơi hồ thực vật thủy sinh hoặc mới chuyển đổi hồ cá cảnh đơn thuần thành hồ cá cảnh có thực vật thủy sinh thường mắc phải. Cứ xem như đây là khóa hướng dẫn hạ cánh an tòan trong nghề chơi để hạn chế thiệt hại do “ngu phí” cao.Đa số những sai lầm này của chúng ta thường dẫn đến kết quả đáng buồn là cây cỏ thủy sinh từ từ lên đường sau vài tuần ngắc ngoải… và với những người không hay nản chí và không chịu thua ngay lần đầu thì… tiến trình này (set up lại hồ, trồng cây mới…) cứ lập đi lập lại… cho đến khi hoặc lòng kiên nhẫn của ta hoặc túi tiền của ta cạn kiệt! Thường thì các điều sai lầm này có nguyên nhân từ những lời xúi bậy của những người (nhân viên) ở các cửa hàng cá cảnh – vật nuôi, những kẻ chả biết cóc khô gì về thực vật thủy sinh… thậm chí họ còn bán cho ta các lọai cây thủy sinh dỏm nữa! Rất nhiều người mới chơi đầy tiềm năng đã ngỏanh mặt đi đối với thế giới thủy sinh chỉ vì xui xẻo nhận được những lời xúi dại đó cũng như vì 3 điều sai lầm sau đây:
1. Nhưng tôi thấy hồ của tôi đủ sáng đấy chứ!
Thường thì người ta cứ cố trồng cây thủy sinh với nguồn sáng sẵn có (trang bị kèm theo hồ cá cảnh) của hồ hoặc là mua một bộ đèn có sẵn bóng với giá rẻ cho mục đích chung chung! Đôi khi hệ thống chiếu sáng đó chỉ là 1 bóng hùynh quang có công xuất khỏang 15w hay 20w mà thôi (với bước sóng và nhiệt độ màu không phù hợp, nó chỉ đem lại sự lãng phí về điện năng, tăng nhiệt độ nước hồ, gây rêu hại mà thôi). Một trong những yếu tố then chốt để trồng cây thủy sinh là ánh sáng. Cây cần ánh sáng để quang hợp, không có ánh sáng, cây sẽ chỉ tồn tại vài ngày hoặc vài tuần bằng năng lượng dự trữ của nó rồi từ từ tàn lụi, chết đi.
Nhiều người còn bị đánh lừa bởi những lời khuyên tầm bậy rằng hệ thống chiếu sáng được cung cấp kèm theo hồ đủ đáp ứng như cầu quang hợp của cây thủy sinh. Thật ra thứ đèn được cung cấp kèm theo đó chỉ có thể trồng Rêu cá đẻ và đôi khi Dương Sỉ thừơng (dương Sỉ Java), nhưng cây sống rất èo uột! Nếu bạn thích cây thủy sinh của bạn xấu xí, èo uột, cao lỏng khỏng lêu đêu thì xin mời bạn cứ thử. Không cần biết hồ của bạn trông rực rỡ thế nào dưới ánh đèn đó… đảm bảo là thiếu sáng! Cây chỉ sử dụng một vài màu chuyên biệt trong dãy quang phổ để quang hợp, thường là trong dãy các màu đỏ và xanh trong quang phổ. Mắt người chỉ nhận biết tốt màu xanh trong quang phổ. Vì vậy đôi khi trông có vẻ sáng rực rỡ lại không thích hợp và đủ cho các lòai thực vật. Luôn luôn nên chọn bóng có quang phổ tòan phần (full spectrum) hoặc bóng chuyên dùng cho việc trồng cây thủy sinh và phải đạt công xuất tối thiểu 1.5w–2w / gallon để có thể đáp ứng nhu cầu căn bản của các lọai thực vật thông thường trong hồ thủy sinh. Mặc dù đây chưa phải là nguyên tắc bất di bất dịch trong tính tóan lượng – công xuất ánh sáng cần thiết cho hồ thủy sinh, và cách tính tóan này tỏ ra không chính xác lắm với những hồ quá nhỏ (dưới 10 gallons) hoặc quá lớn (trên 75 gallons), vẫn có thể xem nó như kim chỉ nam cho người chơi.
Dưới đây là bản phân tích chất lượng ánh sáng cho cây thủy sinh tương ứng với từng mức công xuất ánh sáng: – 0–1.5w/gallon: rất yếu – có lẽ chả thứ cây thủy sinh gì sống nổi.- 1.5–2w/gallon: Yếu – các lọai cây thích nghi cao sống được, mọc chậm.- 2-3w/gallon: trung bình – đa số cây thủy sinh phát triển tốt.- 3+ w/gallon: mạnh – tất cả các lọai thực vật thủy sinh phát triển tốt. Có một điểm phải tính đến ở đây… đó là ảnh hưởng của các mức ánh sáng khác nhau trên cùng một lọai cây. Chính điều này thường dẫn ta đến sai lầm thứ 2.
2. Nhưng tôi nghĩ ánh sáng mạnh = hồ đẹp!
Cứ cho là bạn thỏai mái trong vấn đề tài chính và bạn quyết định mua một bộ đèn đắt tiền có công xuất cao cho hồ thủy sinh của bạn. Sau đó trồng ít cây vào hồ rồi ung dung ngồi rung đùi ngắm chờ cây phát triển, đúng không? SAI! Ánh sáng trong hồ thực vật thủy sinh được ví như chân ga trong xe hơi, bạn nhấn ga càng nhiều xe càng phi nhanh, nhưng mọi thừ cũng nhanh chóng vượt tầm kiểm sóat… khi đó mọi việc trở nên xấu đi! Không phải có hệ thống chiếu sáng mạnh bao giờ cũng là tối ưu, nhất là đối với những ngừơi mới làm quen với hồ thực vật thủy sinh! Những hiểu biết cơ bản nhất về sự chuyển hóa – trao đổi chất của thực vật nói chung và thực vật thủy sinh nói riêng là rất cần thiết trong chuyện này (đừng lo, tôi sẽ không quá chi tiết trong vấn đề này). Thực vật cần một mớ các lọai nguyên liệu và năng lượng để cho ra thành phẩm (lá mới, ngọn mới…). Nguyên liệu ở đây là các dưỡng chất đa lượng, vi lượng, các nguyên tố cần cho sự phát triển, và năng lượng chính là ánh sáng. Nếu thiếu một trong các yếu tố trên, tòan bộ quá trình chuyển hóa của cây sẽ lập tức ngưng trệ.
Quan trọng hơn nữa… hay có thể nói là tệ hại hơn nữa… là chính việc này (lắp hệ thống ánh sáng mạnh) sẽ kích họat hệ sinh thái trong hồ thủy sinh họat động ở tần xuất cao. Cây thủy sinh sẽ ngưng chuyển hóa – trao đổi chất ngay khi nó thiếu hụt bất cứ chất nào nó cần cho quá trình này. Nếu song song với việc lắp hệ thống đèn tốt mà bạn không bổ sung dinh dưỡng (phân bón) cho cây thủy sinh… bạn sẽ thấy ngay hậu quả là chính hệ thống đèn đắt tiền chất lượng cao đó chỉ làm được mỗi một việc là kích thích sự bùng phát của tảo hại trong hồ thủy sinh, rất nhanh, vô cùng nhanh! Vì lý do đó, tôi khuyên bạn nên chọn hệ thống đèn từ trung bình đến yếu cho những lần set up hồ thủy sinh đầu tiên. Khi đó, bạn sẽ không cần bổ sung phân bón, dinh dưỡng cho cây nhiều, mọi thứ sẽ không vượt khỏi tầm kiểm sóat quá nhanh. Nên nhớ là rất khó phục hồi sau khi bị tảo hại hòanh hành nặng nề. Vì có nhiều lọai tảo hại gần như không thể lọai trừ một khi chúng đã xuất hiện. Tôi từng nghe kể nhiều trường hợp đau lòng là ngườI chơi buộc phải phá dỡ bỏ hòan tòan và làm lại từ đầu vì dính chưởng rêu tảo hại. Bạn phải phòng tránh điều này ngay từ đầu đấy!
3. Ủa nhưng người bán nói chúng là cây thủy sinh mà?
Nhiều cửa hàng cá cảnh bán cây thủy sinh và… vấn để ở đây là có nhiều cửa hàng cũng bán cả những lọai cây thủy sinh dzỏm!!! Cái này thì phảI nhờ vào kinh nghiệm bản thân thôi… trừ khi người bán có lương tâm… còn không thì điều gì cũng có thể xảy ra. Nhiều lọai cây không thực sự sống ngập chìm dưới nước, nhưng vẫn có thể tồn tại vài tuần, thậm chí vài tháng hay cả năm sau mới chết. Dù cho chúng có đẹp thế nào chăng nữa… khi ta mua phải những lọai như vậy xem như là đã lãng phí rồi! Có vài lọai như vậy luôn xuất hiện:
Chừng nào bạn có thể tránh được 3 điều sai lầm cơ bản trên, là bạn đã có bước khởi đầu tốt đẹp với thú chơi hồ thực vật thủy sinh tuyệt vời rồi đó. Tiến trình kế tiếp sẽ là việc đặt cược tiếp tục cho những thử nghiệm với các lọai cây khó hơn, bố cục phức tạp hơn, kỹ thuật cao hơn. Dù vô cùng gian nan, bạn cứ mạnh dạn thử nghiệm đi rồi thành công sẽ mỉm cười với bạn, phần thưởng sẽ là sự sống động lung linh của một thế giới thủy sinh thu nhỏ mà bạn không muốn rời mắt!
Đất nước Nhật Bản đã được biết đến với nghệ thuật cắm hoa Ikebana và nghệ thuật trồng cây tiểu cảnh bonsai từ rất lâu, nhưng giờ đây lại bắt đầu xuất hiện những hồ thực vật thủy sinh cùng kiểu cách như thế. Có người sẽ thắc mắc nghệ thuật tiểu cảnh bonsai thì dính dáng gì đến hồ thực vật thủy sinh chứ ? Đối với người Nhật, nghệ thuật thủy sinh cảnh phải có cấu trúc chặt chẽ, ngăn nắp và đúng quy tắc. Đối với người phương tây, có thể hồ thực vật thủy sinh hiện diện trong nhà họ là vì mục đích cân bằng sinh học, chứ không phải vì tính thẩm mỹ. Trong bài này, tôi sẽ giải thích – trình bày những quy tắc trong thú chơi này tại Nhật Bản, và hơi lan man thêm một tí về các phương tiện, dụng cụ phục vụ niềm đam mê đó. Chẳng phải đợi đến tận đầu thập niên 80 của thế kỷ trước thì hồ thực vật thủy sinh mới được ưa chuộng và trở thành một trào lưu. Người Nhật đã biết phát huy khả năng khéo léo trong xếp đặt bố cục với các lọai cây thủy sinh trong hồ cá cảnh từ lâu. Và tại sao không nhỉ ? Đó cũng giống như việc người ta sao chép thu nhỏ lại những cây cỏ trong một khu rừng, rồi trang trí thêm tí hoa lá cành cho nó không theo một trật tự nhất định nào. Do vậy, cũng không có gì đáng ngạc nhiên khi một số hồ thủy sinh có bố cục đẹp nhất thế giới đều có xuất xứ từ đất nước Phù Tang. Một vài nghệ nhân thủy sinh cảnh Nhật Bản thậm chí còn đưa được môn nghệ thuật này vào đời sống văn hóa phương tây mà tiêu biểu là Takashi Amano và Doshin Kobayashi. Hai nhân vật này đã tự mình làm được một việc quan trọng là nâng giá trị của hồ thực vật thủy sinh (nước ngọt) lên tầm cao. Tại sao họ gây được ảnh hưởng lớn đến như thế trong thú chơi này ?
Câu trả lời đơn giản và cụ thể là: Thiết kế và phong cách.
Nếu ai đó muốn mổ xẻ – phân tích về thiết kế và phong cách của hồ thực vật thủy sinh kiểu Nhật Bản thì người đó phải biết giảng rộng hơn một chút về tín ngưỡng, văn hóa và xã hội Nhật Bản. Bạn có thể cho rằng những thứ ấy chẳng đóng bất cứ vai trò gì trong cái gọi là hồ thực vật thủy sinh cả, nhưng với xứ sở mặt trời mọc này thì 3 thành tố này là nền tảng của mọi thứ trên đời. Từ một giao dịch thương mại (thương vụ) phức tạp đến việcđơn giản như cắm một cái cây trong hồ thủy sinh, các thành tố này luôn đóng một vai trò nào đó. Xin phép cho tôi được giải thích như sau:
Về căn bản thì tín ngưỡng tôn giáo tại Nhật Bản là sự pha trộn của Phật Giáo và Thần Đạo và thêm một tí ti Thiên Chúa Giáo trong đó. Xã hội Nhật có sự phân chia giai cấp giữa qúy tộc và thường dân. Có thể nhận thấy điều này trong việc sử dụng một lọai cây nào đó làm tiêu điểm, tạo ưu thế số đông trong bố cục thủy sinh cảnh, thí dụ như việc tạo thảm thực vật (thảm cỏ) với Trân Châu Nhật (Glossostigma Elatinoides), sau đó dùng cây thuộc họ Rotala trồng lệch tâm để làm điểm nhấn.
Ảnh hưởng của Phật Giáo Thiền Tông đã ăn sâu vào lối xếp đặt – bố trí cây thủy sinh của người Nhật. Ví dụ, số lượng đá to dùng xếp đặt trang trí trong hồ phải là số lẻ như 1, 3, 5, vân vân. Con số 4 cũng là một con số xui xẻo ở Nhật Bản vì trong tiếng Nhật số 4 (shi) đồng âm với chữ Tử (chết). Việc tiếp cận với Thiền là rất trừu tượng và khó miêu tả. Bản thân việc nghiên cứu về Thiền cũng đúc kết từ thiên nhiên, do vậy cũng chẳng lấy gì làm ngạc nhiên khi Thiền có ảnh hưởng sâu đậm đến nghệ thuật tạo bố cục thủy sinh cảnh.
Takashi Amano đã từng nói về ảnh hưởng của Thiền thế này, “Rất khó giải thích, mô tả bằng lời về ảnh hưởng của Thiền trong nghệ thuật tạo thủy sinh cảnh. Khi sắp đặt bố cục thủy sinh cảnh, không chỉ đơn thuần là ta tái tạo – sao chép một sinh cảnh nào đó, mà là sáng tác, gợi được cảm xúc cho người xem. Nó là một môn nghệ thuật sinh động mà hồ kính được ví như khung lụa để vẽ tranh và người chơi đóng vai trò của một họa sĩ sáng tác. Hồ thủy sinh là tác phẩm mang phong cách tự nhiên hay phong cách ấn tượng như trong hội họa.
Phong cách Thiền trong nghệ thuật tạo hình thủy sinh cảnh không thể được truyền thụ mà phải được cảm thụ bằng sự chiêm nghiệm. Làm thế nào để học được cách tạo thủy cảnh như Amano ? Điều đó đòi hỏi phải có khả năng (thiên phú?) cảm nhận về thiên nhiên, và nhiều năm thất bại. Rất nhiều cuốn sách về nghệ thuật làm vườn Nhật Bản thuộc lọai thứ dữ theo kiểu “nên và cần phải mua xem” hay “cẩm nang gối đầu nằm” nhưng tiếc thay chả có lấy một đọan nào về hồ thủy sinh. Mấy cuốn sách đó chỉ tòan nói về bonsai Nhật, vườn cảnh, vườn đá, vườn cát, vườn tiểu sinh cảnh Nhật mà thôi. Để có thể nắm bắt được cái hồn của nghệ thuật thủy sinh cảnh Nhật Bản ấy, người ta phải tự hòan thiện kiến thức về tất cả các kiểu, cách thiết kế và tạo hình vườn Nhật Bản. Takashi Amano đã từng được nhiều người hỏi làm thế nào ông sáng tạo một hồ thủy sinh cảnh như vậy, và câu trả lời luôn là…phải hiểu thiên nhiên và hơn thế nữa ! Đấy là một con người có thiên phú nhưng không thể diễn tả thành lời về điều đó. Thật ra, có nhiều cách để bắt chước Mẹ Thiên Nhiên, mỗi người sẽ tự tìm cho mình con đường riêng.
Văn hóa Nhật được xây dựng trên nền tảng của lề thói và luật lệ. Đó không chỉ đơn thuần là thứ luật lệ do chính phủ đặt ra để cai trị mà là những luật tục. Các luật tục này luôn được tuân thủ nghiêm ngặt tại Nhật Bản. Kẻ nào bất tuân sẽ bị xã hội ruồng bỏ. Theo nhân sinh quan của tôi, thì đấy chính là nguồn gốc của tinh thần kỷ luật mà người Nhật đã vận dụng trong việc bảo dưỡng những hồ thực vật thủy sinh đẹp đẽ của họ. Vì rằng mọi thứ ở Nhật đều thường có quy mô, kích thước nhỏ (so với thứ có kích cỡ XL hay XXL bên phương Tây) nên việc duy trì – bảo dưỡng một thế giới vi mô là điều vốn dĩ không khó. Tôi cũng tin rằng một người mới chơi cỡ thường thường bậc trung bên Nhật thường có khuynh hướng nghiên cứu tìm kiểu kỹ về thú chơi trước khi nhảy ùm vào thế giới thủy sinh. Tôi nói thế là dựa vào sự có mặt của vô số các tạp chí về thủy sinh tại Nhật Bản. Điều đó nói lên nhu cầu đọc của người Nhật hơn là nói đến sự sẵn có của phương tiện hỗ trợ. Rất khó phân biệt giữa đâu là nhà (tiệm) sách và đâu là thư viện ở Nhật. cả 2 nơi đều giống nhau ở chỗ luôn đông người, lúc nào cũng đầy người đang tranh thủ đọc, nhưng chẳng mấy ai mua.
Thêm một nguyên nhân cho biết tại sao người chơi thủy sinh tại Nhật có sự hiểu biết tốt hơn về nghề chơi, đó là nhờ vào đội ngũ các nhân viên rất lành nghề có kiến thức tốt tại các tiệm bán thủy sinh. Tại Mỹ, ta thường thấy người phụ việc tại các tiệm cá cảnh, thủy sinh là mấy nhóc tì thiếu niên, mấy tay này chả có một tí kiến thức hay khái niệm nào về lọai nền thích hợp cho cây thủy sinh. Đã vậy nguồn cung cấp cây thủy sinh tại Mỹ lại quá nghèo nàn. Ở Nhật, hầu như mọi con người làm việc tại các tiệm cá cảnh, thủy sinh đều rất am tường về các lọai cây thủy sinh. Nếu bạn tìm cách truy, bắt bí họ bằng một câu hỏi hóc búa thì họ có thể sẽ cố gắng tìm câu trả lời cho bạn trong một quyển tạp chí thuộc lọai xịn nào đó về lĩnh vực thủy sinh. Còn về việc cung cấp cây thủy sinh chất lượng cao (có nguồn gốc ngọai nhập) thì không nghi ngờ gì nữa, đó là những thứ tốt nhất thế giới mà bạn có thể tìm thấy ở một số tiệm tại Nhật. Ấy là chưa nói tới nguồn cung cấp dồi dào cây thủy sinh bản địa.
Một điều nữa về người Nhật, đó là đức tính kiên trì – tận tụy với hầu như bất cứ việc gì họ thực hiện. Sự tận tụy đó cũng được thể hiện cả trong thú chơi thuỷ sinh cảnh. Như bạn đã biết, việc bảo dưỡng duy trì hồ thực vật thủy sinh rất nhiêu khê vất vả. Lẽ dĩ nhiên, có không ít người chơi mới tại Nhật đành ném khăn (giống như luật thi đấu võ thuật, bên nào cảm thấy bất lợi và muốn xin thua trong khi võ sĩ của họ vẫn đang tiếp tục đấu thì sẽ quăng khăn lên sàn đấu làm hiệu) chào thua ngay từ lần đầu hồ thủy sinh của họ bị rêu hại hòanh hành, nhưng đa số đều tỏ ra kiên định. Hầu hết cửa hàng thủy sinh tại Nhật đều cung cấp rất nhiều chủng lọai sản phẩm. Mọi thứ của hãng Dupla, Dennerle và Tropica cũng đều có mặt. Nếu như bạn không tìm thấy một sản phẩm nào đó của 3 nhãn hiệu trên thì đã có mặt hàng nội hóa tương tự do quý ông Amano, ADA sản xuất. Giá cả dĩ nhiên là cao, nhưng chất lượng thực sự tương xứng đấy. Aqua Design Amano (ADA) là nhãn hiệu có sản phẩm được sử dụng rộng rãi nhất tại Nhật.
Thêm một nguyên nhân cho biết tại sao người chơi thủy sinh tại Nhật có sự hiểu biết tốt hơn về nghề chơi, đó là nhờ vào đội ngũ các nhân viên rất lành nghề có kiến thức tốt tại các tiệm bán thủy sinh. Tại Mỹ, ta thường thấy người phụ việc tại các tiệm cá cảnh, thủy sinh là mấy nhóc tì thiếu niên, mấy tay này chả có một tí kiến thức hay khái niệm nào về lọai nền thích hợp cho cây thủy sinh. Đã vậy nguồn cung cấp cây thủy sinh tại Mỹ lại quá nghèo nàn. Ở Nhật, hầu như mọi con người làm việc tại các tiệm cá cảnh, thủy sinh đều rất am tường về các lọai cây thủy sinh. Nếu bạn tìm cách truy, bắt bí họ bằng một câu hỏi hóc búa thì họ có thể sẽ cố gắng tìm câu trả lời cho bạn trong một quyển tạp chí thuộc lọai xịn nào đó về lĩnh vực thủy sinh. Còn về việc cung cấp cây thủy sinh chất lượng cao (có nguồn gốc ngọai nhập) thì không nghi ngờ gì nữa, đó là những thứ tốt nhất thế giới mà bạn có thể tìm thấy ở một số tiệm tại Nhật. Ấy là chưa nói tới nguồn cung cấp dồi dào cây thủy sinh bản địa.
Một điều nữa về người Nhật, đó là đức tính kiên trì – tận tụy với hầu như bất cứ việc gì họ thực hiện. Sự tận tụy đó cũng được thể hiện cả trong thú chơi thuỷ sinh cảnh. Như bạn đã biết, việc bảo dưỡng duy trì hồ thực vật thủy sinh rất nhiêu khê vất vả. Lẽ dĩ nhiên, có không ít người chơi mới tại Nhật đành ném khăn (giống như luật thi đấu võ thuật, bên nào cảm thấy bất lợi và muốn xin thua trong khi võ sĩ của họ vẫn đang tiếp tục đấu thì sẽ quăng khăn lên sàn đấu làm hiệu) chào thua ngay từ lần đầu hồ thủy sinh của họ bị rêu hại hòanh hành, nhưng đa số đều tỏ ra kiên định. Hầu hết cửa hàng thủy sinh tại Nhật đều cung cấp rất nhiều chủng lọai sản phẩm. Mọi thứ của hãng Dupla, Dennerle và Tropica cũng đều có mặt. Nếu như bạn không tìm thấy một sản phẩm nào đó của 3 nhãn hiệu trên thì đã có mặt hàng nội hóa tương tự do quý ông Amano, ADA sản xuất. Giá cả dĩ nhiên là cao, nhưng chất lượng thực sự tương xứng đấy. Aqua Design Amano (ADA) là nhãn hiệu có sản phẩm được sử dụng rộng rãi nhất tại Nhật.
Singapore là nơi cung cấp cây thủy sinh cho Nhật và hầu hết các nước trên thế giới. Nhưng Tropica cũng là nguồn cung lớn cho thị trường Nhật. Đa số chủng lọai đến từ Singapore là các lọai rêu cảnh thủy sinh, cây bụi, cây thân đốt. Trong khi đó các chủng lọai Tropica cung cấp là dạng Tiêu Thảo (Crypts), dạng cây bụi lá hình kiếm (Sword plants/Echidonorus) và nhiều lọai thực vật thủy sinh đặc hữu khác. Vài cửa hàng lớn tại Tokyo còn cung cấp cây từ cả 2 nguồn Tropica và Dennerle. Nạn nhân/con mồi của các cửa hàng này là các aquarists dư tiền để đốt. Mặc dù giá cả trên trời nhưng đôi khi hàng hóa chưa phải là lọai tốt nhất. Khuynh hướng của cửa hàng thủy sinh tại Nhật là cung cấp cây thủy sinh không nhiễm tảo hại (algea free). Đó là nhận định của tôi sau khi viếng thăm khỏang hơn chục tiệm tại vùng Quan Đông (Kanto). Lẽ dĩ nhiên, cửa hàng yêu thích cuả tôi vẫn là cái tiệm ngay vùng tôi sống mang tên Aqua Opa. Chủ cửa hàng là ông Kamimura, một người tốt bụng, dễ thương nhất mà tôi từng gặp. Nếu không có lọai cây mà bạn cần thì ngay lập tức ông ấy sẽ giúp bạn bằng cách gọi cho mối lái nơi này nơi kia xem họ có hay không. Thường thì phải mất khỏang 1 tuần cho bất kỳ đơn đặt hàng riêng lẻ. Giá cả thì vô chừng từ rất rất rẻ đến đắt xanh mắt. Tokyo không phải là nơi để mua cây thủy sinh. Ở Tokyo, bụi cây thường nhỏ hơn và giá lại cao hơn. Cây trồng sẵn trong chậu luôn bé hơn thứ bán ở các tiệm nằm xa thành phố lớn. Nhưng bù lại nguồn cung cấp dồi dào hơn.
Có lẽ tôi nhận định quá sâu vào thú chơi này theo nhân sinh quan của mình, nhưng những yếu tố xã hội của Nhật Bản đã thực sự có ảnh hưởng đến nghệ thuật tạo hình thủy sinh cảnh tại đất nước này. Bản thân tôi chỉ mong muốn giới thiệu phong cách Nhật trong nghệ thuật thủy sinh đến những người đam mê, và cả những người mới tập tễnh vào nghề.
Tác giả Ryan Stover, 25 tuổi, từng sống tại Yokosuka -Nhật 5 năm trong thời gian phục vụ tại căn cứ Hải Quân Hoa Kỳ tại đây. Stover có kinh nghiệm trên 10 năm trong nghề chơi thủy sinh, đã từng set up hằng tá hồ thủy sinh trong thời gian làm việc tại Nhật. Nên thăm trang Web của anh ấy, suiso.com
Đá và gổ lủa là những vật liệu không thể thiếu được để tạo nên bố cục tự nhiên cho bể hồ thuỷ sinh. Chúng hiện hửu trong thiên nhiên với những hình thù và góc cạnh rất khó để chúng ta tự tái tạo lại trong môi trường nhân tạo. Một cấu trúc đẹp có thể được tạo thành bởi những kết hợp giữa các tảng đá và gổ lủa với những kích thước tương đồng. Khi có sự phối trí và kết hợp hài hoà giữa 2 loại vật liệu này, chúng sẻ cho phép chúng ta mô phỏng và thu gọn được những nét đẹp của thiên nhiên hoang dã vào trong môi trường nhỏ hẹp của bể hồ thuỷ sinh.
Khởi đầu với những điều căn bản
Một trong những bể thuỷ sinh đầu tiên của tôi có bố cục rất đơn giản, chỉ có những tảng đá lấy từ các dòng sông và cây Echinodorus tenellus. Thật vậy, chỉ với bố cục của các tảng đá theo phong cách iwagumi là những bước khởi đầu về phương cách chơi thuỷ sinh của tôi. Cách phối trí và kết hợp những tảng đá giữ vài trò rất quan trọng để tái tạo cảm tưởng một cánh đồng cỏ xanh mướt trải dài ra đến tận chân trời mà cấu trúc của nó chỉ có vỏn vẹn duy nhất một loại đá và một loại cây thuỷ sinh. Loại đá được dùng trong bố cục này là những tảng đá có nguồn từ các dòng sông với mặt phẳng trơn láng, đậm màu và có chút ít lồi lỏm hằn lên một vài nơi trên các tảng đá. Sự kết hợp giữa các tảng đá từ các dòng sông với những kích thước khác nhau sẻ tạo nên cảnh tượng các tảng đá hoang sơ trên môt cánh đồng cỏ trải dài.Mặc dầu kích thước của các tảng đá có những khác biệt khá rõ ràng về kích thước, chúng ta vẩn có thể tái tạo một cảnh thiên nhiên hoang dã thoáng rộng chỉ với các tảng đá vì chúng thường có những hình thù và cấu trúc giống nhau. Đối với gổ lũa, cũng tương tự như thế; sự kết hợp giữa vài miếng gổ lũa sẻ tạo nên cảnh tượng của những nhánh tàng hay gốc rể của một cây cổ thụ khổng lồ. Khi áp dụng những gì vừa đề cập khi sắp xếp các vật liệu, thì đó chính là một trong những kỷ thuật căn bản nhất, và cũng là đặc tính nổi bật nhất của bể hồ thuỷ sinh vậy.
Thay đổi vật liệu hồ thủy sinh
Sẻ có nhiều thay đổi một khi bố cục của bể hồ thuỷ sinh được khai triển rộng ra thêm, nhất là khi số lượng đá và gổ lũa sử dụng gia tăng. Ấn tượng chung của bể sẽ thay đổi khi sự sắp xếp của các loại cây thuỷ sinh được thay đổi, mặc dầu bố cục căn bản của đá và gổ lũa không thay đổi. Nói một cách khác, bố cục trong bể hồ thuỷ sinh là sự theo đuổi của một sự kết hợp hài hoà giữa vật liệu cấu trúc và các loài cây thuỷ sinh.
Có đôi lúc, tôi cho sắp xếp hàng loạt các bố cục theo phong cách iwagumi bằng cách thay đổi các loại đá, nhưng vẩn giữ cây thuỷ sinh và loại cá như nhau, hoặc tôi thay đổi cây thuỷ sinh (souzou haishoku, và giữ nguyên bố cục của các tảng đá hoặc gổ lũa. Các phương cách này cực kỳ quan trọng trong việc tìm kiếm ra những tiêm năng bố cục khác nhau. [b] Đấy chính là con đường tắc nhanh nhất để trở nên quán triệt và nâng cao tay nghề đến một tầng siêu việt hơn trong thú chơi thuỷ sinh.
Một trong những phương cách tạo dựng nên bố cục iwagumi căn bản nhất là dùng các loại cây thuỷ sinh thấp lùn như Echinodorus tenellus (như trong bố bể cục thuỷ sinh đầu tay của tôi), cỏ tóc, Glossostigma, Riccia, hay gần đây nhất là loại cỏ trân châu Cuba. Khi dùng phương pháp này, các bạn sẻ hoàn thiện sự hiện hửu của các tảng đá. Tuy nhiên, trong quá trình tìm kiếm va thay đổi phong cách của các bố cục, tôi thường kết hợp những loại cây thuỷ sinh thấp lùn với một số loại cây cao hơn như Eleocharis vivipara va Echinodurus angustifolius. Phương cách này sẻ tạo ra bố cục iwagumi với các ấn tượng hoàn toàn khác lạ.
Thí dụ điển hinh là sự kết hợp bố cục giữa các tảng đá và một số loài cây thuỷ sinh có thân cao. Mặc dậu phương cách này nhìn khác với bố cục chỉ có đá iwagumi, nhưng nó tạo ra một ấn tượng đáng ghi nhớ rằng đây là một loại bố cục mới với sự thay đổi của các loài cây thuỷ sinh. Mặc dầu các bạn đã có thể có những bố cục mà bạn tạm cho là hoàn thiện bằng cách xử dụng các tảng đá hoặc gô lũa, nhưng để đi đến một phong cách hoàn thiện nhất, chúng ta cần phải thử nghiệm nhiều cách thức sắp xếp khác nhau.
Sáng tạo và thay đổi
Trong cuộc tranh tài quốc tế về bố cục thuỷ sinh đã có nhiều biến chuyển. Điều quan trọng mà các bạn cần lưu ý là làm sao tạo nên được sự phối hợp mới giữa cấu trúc của các vật liệu và các loại cây thuỷ sinh, không phải chỉ trong các cuộc so tài, mà quan trọng hơn là làm sao mang được và sửa đổi sao để có thể mang được cái tinh tuý và tự nhiên của thiên nhiên vào bể hồ thuỷ sinh. Những bố cục nào chuyên chở được đặc tính này của thiên nhiên, chắc chắn sẻ được sắp xếp vào các thứ hạng cao trong các cuộc tranh tài quốc tế. Là một trong các vị giám khảo của các cuộc tranh tài này, cá nhân tôi luôn để mắt và đánh giá cao các bố cục như thế này. Tôi có lời góp ý cho những bạn có tư tưởng dự thi trong các cuộc tranh tài quốc tế trong tương lai là hãy SÁNG TẠO với những tư tưởng mới cho các bố cục dự thi, đừng cứng ngắt bắt chước những bố cục đã được đề xuất, miển sao các bạn chuyên chở được thiên nhiên hoang dã vào trong bể hồ thuỷ sinh như tôi vừa đề cập.
Tuy nhiên, sáng tạo là một chuyện, nhưng thí sinh cần phải hiểu đặc tính của môi trường sinh thái của các loại cây thuỷ sinh với môi trường chúng sinh sống. Đừng nên dùng những loại cây không tự nhiên không thích hợp với môi trường. Thí du như gieo các loài cây thuỷ sinh đòi hỏi nhiều ánh sáng trong bóng râm của các cành gổ lũa, hay những cành non vừa chuẩn bị đâm chồi thì đã bị cắt đi.
Một bô cục tự nhiên có thể tạo được ấn tượng tốt nếu được tạo dựng sử dụng các loài cây thuỷ sinh thích hợp và ứng dụng với môi trường sinh thái tự nhiên của chúng. Nếu xử dụng sai, các loại cây thuỷ sinh này theo thời gian sẻ rất khó mà duy trì và bảo trì.
Một bể hồ thuỷ sinh lý tưởng nhất là một bể không cần phải tốn nhiều công sức trong một chuổi thời gian dài.
“Tỉ lệ vàng” (Golden Ratio) được phát minh vào thời kỳ xa xưa bởi kiến trúc sư Vitruvius, ông cho rằng: “Không gian được chia thành những phần bằng nhau để tạo sự dễ chịu và thẩm mỹ, giữa những phần nhỏ nhất và lớn nhất phải có mối liên quan giống như giữa phần lớn hơn này với tổng thể”
Từ thời kỳ Phục Hưng, các họa sĩ đã sử dụng và áp dụng công thức cho các đối tượng khác nhau. “tỉ lệ vàng” cũng được áp dụng vào khuôn mặt người.
Tỉ tệ có thể được hiểu tóm tắt như sau: Tỉ lệ phần nhỏ đối với phần lớn bằng với tỉ lệ phần lớn với tổng thể. Theo toán học, tổng thể là 1, phần lớn là 0.618 và phần nhỏ là 0.3.82. Khi vẽ lên hồ thủy sinh, chúng ta sẽ có 4 chỗ giao nhau, 4 chỗ là là bốn chỗ được tập chung nhiều nhất. Những giao điểm này cũng biểu thị những vùng khác có thể là vùng âm (negative) hoặc dương (positive), những vùng này không cần có tâm điểm cho hồ thủy sinh. Các đường nằm ngang có thể được dùng là “đường chân trời” (đường nằm giữa nước và nền). Những điều này sẽ được làm sáng tỏ bên dưới bằng hình ảnh
Trong hồ thủy sinh hình lòng chảo bên dưới với loài Rotala sp ‘Green’ and Glossostigma elatinoides, nơi nào là tâm điểm? Tâm điểm nằm ở giao điểm trên bên phải nơi hai mô đất gặp nhau. Cụ thể hơn, trong một hồ dạng lòng chảo, giao điểm vàng sẽ nằm vào vùng âm (ví dụ: phần nền) chính giữa 2 mô đất.Trong bố cục thứ 2 dưới đây, giao điểm phía trên bên phải có vẻ như là tâm điểm, và cũng là điểm biến mất (vanishing point) nơi mà cây kết thúc và vùng âm (nền đen) bắt đầu. Đường ngang phía trên cũng nằm trùng với “đường chân trời” của hồ thủy sinh.Cho ví dụ thứ ba, tôi chọn hồ theo kiểu Hà Lan, tâm điểm có vẻ như rơi vào bụi cây Ammania gracilis đầy màu sắc ở phía trên bên phải. Đây có phải là tâm điểm đúng?Hãy ghi nhớ là, những điều này không phải là bắt buộc và cứng nhắc. Có nhiều hướng dẫn khác giúp bạn tạo bố cục hồ thủy sinh. “Tỉ lệ vàng” chỉ là một trong số đó.
Làm cách nào để áp dụng “tỉ lệ vàng” vào hồ của bạn?
Khi lần đầu thiết lập hồ, tôi nghĩ là sẽ có ích nếu bạn lấy thước và đánh dấu các chỗ quang trọng. Đo chiều dài hồ và nhân với 0.618. Ví dụ: một hồ dài 36 inches x 0.618 = 22.25 inches. Vẽ đường thẳng đứng. Tương tự với hướng ngược lại, đo 22.25 inches và vẽ đường thẳng đứng thứ 2. Tiếp tục đo chiều cao hồ và nhân 0.618. Làm tương tự chúng ta có 2 đường nằm ngang. Khi bạn hoàn tất bạn sẽ có hình chữ nhật chết ở giữa và 4 giao diểm giống như các hình ở trên. Bây giờ nếu bạn muốn áp dụng “tỉ lệ vàng” thì bạn đã biết đâu là tâm điểm và nơi nào nên làm đường chân trời…
Người Hà Lan là những người đầu tiên quan tâm đến trồng cây trong hồ, cây được trồng thành công ít nhất từ những năm 1940. Tổ chức NBAT (Dutch Aquarium Society) bắt đầu tổ chức các cuộc thi hàng năm với nguyên tắc nhất định về cách trồng cây trong hồ ra sao. Với việc áp dụng các quy tắc, các thí sinh bắt đầu tạo dáng hồ của họ của họ cho phù hợp. Từ đó một phong cách đã bắt đầu hình thành. Những dấu ấn của phong cách này là sự chặt chẽ và cắt tỉa gọn gẽ của các bụi cây. Cây thủy sinh được tổ chức thành hàng ngay ngắn và gia tăng chiều cao từ trước ra sau. Lý tưởng , nhiều nhất khoảng ba loại cây được sử dụng cho mỗi feet của bể cá, như vậy một bể 4 foot (48 inches) lý tưởng nên có không quá mười hai loài. Cây thân dài được chọn lựa cẩn thận với tỷ lệ tăng trưởng của chúng cũng như hình dạng cành cần bảo dưỡng ít nhất có thể – do đó các loài Lobelia và Saururus cernuus được sử dụng phổ biến.
Cây cần được tổ chức để cung cấp độ tương phản tối đa màu sắc và hình dạng lá/ kích cỡ với cây lân cận. Màu sắc có thể bao gồm màu xanh lá cây nhạt, xanh lá cây đậm, nâu, đỏ, hồng, và màu tía. Cây lá nhỏ Hemianthus micranthemoides tương phản với cây lá hình kiếm lớn, cây lá tròn Bacopa caroliniana tương phản với cây lá mảnh Ammania gracilis,… Các cây gọn gàng này được nên được sắp xếp và trồng xung quanh tâm điểm của bể. Bể cá nên không có nhiều hơn hai tâm điểm, thường được đặt 1/3 hoặc 2/3 chiều dài của bể (quy tắc của một phần ba).
Một vài lưu ý quan trọng là mặt sau của bể không bao giờ làm cho bắt mắt (không có cây màu đỏ phía sau) để làm cho bể có chiều sâu hơn. Ngoài ra, hồ thường có thể xem được chỉ từ một phía. Các bức tường phía sau và hai bên cần được che dấu và nhìn càng giống tự nhiên càng tốt, thường sử dụng với rêu và dương xỉ Java. Chúng tạo ra những bức tường rêu phong. Một việc cần xem xét nữa là sự đa dạng của việc trang trí cần sử dụng càng ít càng tốt, giống như những gì ông Amano ủng hộ. Không sử dụng các loại đá khác nhau hoặc các loại gỗ khác nhau – nên sữ dụng một loại mà thôi
Các loại cây điển hình cho phóng cách Hà Lan:
Rotala indica
Lobelia cardinalis
Limnophila aquatica
Bacopa caroliniana
Alternanthera reineckii
Java rêu
Ammania gracilis
Hygrophila corymbosa v stricta
Hygrophila difformis
Saururus cernuus
Hydrocotyle leucocephala
Didiplis Diandra
Rotala macrandra
Vallisneria sp
Echinodorus ‘Ozelot’
Cá đóng một phần rất quan trọng trong phong cách này. Khu vực phía dưới, giữa, và phía trên đầu của một chiếc bể nên được lấp đầy với cá để làm cho mỗi khu vực thú vị cho người xem. Tất cả các loài cá phải khác trong hình dạng, màu sắc và kích thước, nhưng ít nhất số loài cá có thể (như vậy không có màu xanh rams trong hồ có kribensis, hoặc hatchetfish bạc với hatchetfish cẩm thạch, vv.). Một nhóm các loài cá lớn như cá nhám dẹp hoặc congo tetras luôn luôn đánh giá cao. Các đàn cá phải càng lớn càng tốt.
Sự xuất hiện của hồ cá trong một phòng khách được cũng rất quan trọng, thường có những hồ cá như là phần chính của trang trí. Các bệ kết hợp với các hồ cá đặt vào tường là rất phổ biến do kích thước trong phòng nhỏ.
Thông số kỹ thuật cơ bản của một hồ phong cách Hà Lan
Hồ nhiều kích cỡ từ 90 lít đến 300 lít Ánh sáng: 1,8 WPG đến 2,0 WPG, xếp hạng kenvin là rất thấp (5000k có vẻ như là chuẩn) Nitrate có xu hướng được trên 10 ppm Phosphates có xu hướng thấp (gần bằng không) Lựa chọn các loài cây trồng khoảng 12-19 Loài cá lựa chọn phạm vi 5-7
Trước đây, khi tôi mới tập tành chơi hồ thủy sinh, thấy mấy hồ thủy sinh của ông Amano trang trí bằng gỗ bắt mắt và đẹp quá chừng. Tôi bèn chạy đi kiếm 1 khúc cây xoài chết khô bỏ vào hồ. Mấy ngày sau trên gỗ bám đầy màng trắng đục. Sau đó dần dần cây với cá bắt đầu chết. Tôi cũng chả hiểu chuyện gì đang xảy ra trong hồ? Lọc thì quá tốt vì có kinh nghiệm rồi! Đất nền ư? Cũng không phải vì đáy nền đâu có hiện tượng bị đen thúi. Nước thì vẫn là nước hồi nào đã xài, vậy tại sao cây cá chết? Thủ phạm đáng nghi nhất là gỗ xoài, thực hư sao thì tôi không biết nhưng vẫn khẳng định là gỗ.
Không phải gỗ nào cũng bỏ vào hồ thủy sinh được!
Sau này tìm hiểu tài liệu về gỗ dùng trang trí hồ thủy sinh thì mới biết “không phải gỗ nào cũng bỏ vào được”! Xét về mặt thẩm mỹ và giảm thiểu rủi ro cho hồ cây thủy sinh. Người ta thường dùng gỗ Bogwood và gỗ Driftwood. Tại sao lại kêu như vậy?
Gỗ Bogwood
Gỗ Bogwood thường khai thác từ vùng đầm lầy, là loại gỗ đã bị ngâm rất lâu trong nước và bị bào mòn bởi nắng, mưa và gió. Vì thế gỗ này sẽ không bị mục nát, cũng không bị nấm mốc hay vi sinh phát triển khi đưa vào hồ thủy sinh.
Gỗ Driftwood
Gỗ Driftwood hay còn gọi là gỗ “jati wood” hoặc “mopani” (loại gỗ cứng ở vùng nam châu phi). Gỗ Mopany là những loại gỗ đã được làm sạch, khô bởi gió và cát khiến gỗ có 2 tông mầu. Một bên thì có mầu sẫm, bên còn lại thì láng và có mầu cát. Đặc biết gỗ Mopany sẽ tạo ấn tượng nhất khi trang trí cùng với nền có mầu cát như hồ kiểu brackish(nước lợ) hay là hồ mô phỏng về dòng sông. Ngoài 2 loại gỗ này, cũng còn nhiều loại gỗ mà chúng ta có thể bỏ vào trang trí hồ thủy sinh như :
Gỗ twisted root (gỗ rễ cây)
Gỗ twisted root (gỗ rễ cây) có thể dùng trang trí hồ để mô phỏng thiên nhiên dưới dòng sông và thích hợp với mọi phong cách hồ thủy sinh. Nhưng với nét đặc thù của loại gỗ này, trang trí hồ mô phỏng về dòng sông, vùng ngập nước, rừng ngập nước hay rừng đước sẽ mang lại ấn tượng cao nhất.
Gỗ tre
Gỗ tre cũng có thể dùng trang trí hồ thủy sinh nhưng phải được xử lý trước khi bỏ vào hồ. Gỗ tre sẽ rất bắt mắt khi nằm ở giũa bụi cây rậm rạp trong hồ mô phỏng thiên nhiên vùng đầm lầy.
Bụi cây, cành cây
Bụi cây, cành cây cũng mang lại ấn tượng như rễ cây hay cành cây ngoài thiên nhiên. Sẽ đẹp nhất khi dùng để trang trí hồ để mô phỏng rừng cây đước.
Một vấn nạn mà mọi người hay vấp phải khi dùng gỗ trang trí hồ thủy sinh là bỏ gỗ vào hồ rồi, gỗ bị thấm nước sẽ nhả ra chất Axít tanic (Tannic acid = chất có mầu vàng). Chất này sẽ làm cho nước trong hồ có mầu nâu hay mầu trà. Axít tanic không có hại cho cá và cây, tuy chúng có làm giảm độ pH hoặc độ cứng của nước. Đôi khi, gỗ ra mầu khiến nước hồ trông giống như ngoài thiên nhiên thực, nhưng nhiều người lại không thích.
Thông thường, với những người mới có thời gian ngắn tiếp cận hồ thuỷ sinh, chúng không chỉ cuốn hút ta bởi vẻ đẹp lung linh của chúng mà còn mang lại cho người chơi một cảm giác yên bình khó tả. Cảm giác đó thôi thúc ta thực hiện một tác phẩm thuỷ sinh cho riêng mình, và niềm đam mê bắt đầu từ đấy. Khi lên kế hoạch thực hiện một bể thuỷ sinh, việc đầu tiên, hãy liệt ra trên giấy những gì cần làm. Việc làm này giúp ta hình dung và thực hiện mọi việc một cách suông sẻ ngay từ đầu. Với kinh nghiệm ít ỏi của mình, khi chọn cây cho một hồ thuỷ sinh, tôi thường chú ý đến những yếu tố được kể ra dưới đây, trong đó, những loại cây được sử dụng thông thường là những loại mà bản thân đã biết được phần nào đặc tính sinh trưởng của chúng.
1. Phân bổ mảng khối
Có rất nhiều chủng loại cây thuỷ sinh để chúng ta có thể sử dụng trong việc tạo một thuỷ sinh cảnh. Cây thuỷ sinh thân đốt (stem plants) là những cây thường được sử dụng nhất bởi đặc tính dễ thích nghi của chúng trong môi trường hồ thuỷ sinh. Đa số các loại thân đốt này có tốc độ sinh trưởng khá nhanh, hình thái đa dạng và khi được nuôi dưỡng tốt, chúng tạo cho bể thuỷ sinh một sức sống tươi trẻ, mạnh mẽ và sung túc. Chúng thường phát triển khá tốt chiều cao và phân nhánh thành bụi rất đẹp. Chỉ cần một vài nhánh, ta có thể nhân chúng thành bụi lớn nhanh chóng bằng phương pháp cắt cắm, vì vậy, chúng còn có tên gọi là “cây cắt cắm”. Chỗ của chúng thường là phía sau và/hoặc hai bên thành bể như để tạo một bức phông tự nhiên. Khi trồng, ta nên trồng chúng cách vách kính 3-5cm để chúng có thể xoè tán lá tự nhiên, không bị ép vào thành bể. Khoảng không gian giữa hồ, ta có thể chọn những cây thân đốt thấp hơn và đòi hỏi ít ánh sáng hơn. Chúng có thể phát triển tốt dưới ánh sáng khuếch tán xuyên qua tầng lá của cây hậu cảnh. Chúng còn phần nào che khuất phần dưới của cây hậu cảnh, thông thường trông rất xác xơ. Sau này, khi tạo một bố cục bền vững hơn cho bể thuỷ sinh, ta dùng đá, gỗ lũa và tô điểm cho chúng bằng những loài rêu (moss) và dương xỉ (bolbitis & microsorium). Vẻ đẹp tự nhiên của chúng sẽ mang lại cho ta cảm giác gần gũi hơn với thế giới tự nhiên. Chính bố cục giữa hồ này tạo phong cách cho bể thủy sinh chúng ta, dù gì, nó cũng là tâm điểm khi nhìn ngắm. Điểm nhấn của bố cục hồ nói chung luôn nằm trong khu vực này.
Phía trước tiền cảnh hồ, ta thường chọn những loại cây thấp mọc lan sát nền, có khả năng che phủ lớp đất nền. Đôi khi, để trống thoáng cả một khoảng không gian tiền cảnh cũng là một cách. Khi đó, ta dùng riêng loại nền trơ (gravel), cát sông… để tạo một khoảng không gian tự nhiên (open foreground aquascape) và hạn chế rêu hại.
2. Màu sắc
Khi phát triển trong môi trường nước, mỗi loại cây thuỷ sinh cho ta những sắc màu khác nhau. Chọn cây hậu cảnh với màu sắc dịu nhẹ, ít tương phản, thường là màu xanh non tự nhiên của thực vật, sẽ giúp mắt nhìn nhẹ nhàng thư thái, cái đẹp dịu dàng lan toả trong khắp không gian hồ. Một hậu cảnh tốt không có nghĩa phải là một mảng màu đồng nhất, sự pha trộn, tạo lập những mảng màu tương phản giúp cho từng cành lá vươn lên khoe sắc đẹp hơn. Trong nền màu xanh tự nhiên, điểm những nhánh, những bụi cây với màu đỏ hồng đâu đó, với vài nhánh đơn lẻ nổi bật tạo cho mắt nhìn cảm giác rất dễ chịu. Khoảng giữa (midground) sau khi đượa trồng những loại cây có tốc độ phát triển châm hơn, tạo những mảng khối, đường nét khác nhau qua hình dạng lá, màu sắc, cho dù có hay không dùng đá hay gỗ lũa để tạo điểm nhấn. Với phần tiền cảnh, cá nhân tôi thường sử dụng một đến hai màu là đẹp nhất. Sự xen kẻ của vài cây họ thân rễ như cỏ đỏ, cỏ nhật hay tiêu thảo giữa bãi ngưu mao chiên hay trân châu bò cũng tạo cảm giác rất thú vị.
3. Hình dáng và kích thước
Nói chung, những cây có lá nhỏ và hẹp (small & narrow leaves) thường dễ dàng hơn trong việc tạo bố cục. Những cây có lá lớn thường dùng kết hợp với những loại lá kim, những cây có lá mượt (smoothed leaf) kết hợp tốt với những cây lá nhăn (crinkled leaf), những đường nét tương phản trên từng chiếc lá như muốn phơi bày sức sống tràn trề của cả tổng thể.Tất nhiên, những cây mọc cao được dồn về phía sau, tuy nhiên, với những khoảng cách chênh lệch nhất định giữa chiều cao của các cây hậu cảnh, và cả những khoảng trống tạo thoáng, sẽ đem lại cảm giác dễ nhịu hơn là một bức màn cây đơn điệu. Bố cục giữa hồ, để dễ hình dung, một bụi Anubias lá to hơn nằm xen giữa những thảm rêu moss mát dịu, sự xen kẽ về kích thước và hình dáng lá của từng loại cây nhằm mục đích nhấn mạnh vẻ đẹp tự nhiên của thế giới thuỷ sinh. Cũng nên chú ý rằng, kích thước, hình dáng và màu sắc của những loại cây cũng phải tương thích với những chú cá yêu được nuôi trong bể, tạo nét đẹp hài hoà cho bố cục. Đó là vẻ đẹp của cây, cái duyên của cá. Mỗi loại cá cũng có những sở thích và thói quen khác nhau nữa.
4. Điều kiện ánh sáng và nước
Có rất nhiều loại cây và mỗi loài trong chúng sẽ phát triển tốt nhất trong từng điều kiện ánh sáng khác nhau. Thông thường, ánh sáng tiêu chuẩn khoảng 1w/lít nước trở lên, các loại bóng đèn khá nhau cũng sẽ cho kết quả khác nhau. Chi tiết hơn, cõ lẽ chúng ta nên tham khảo nhiều hơn nữa về hệ thống chiếu sáng cho hồ thuỷ sinh ở những bài sau. Ở đây chỉ nói ngắn gọn hơn, trong điều kiện ánh sáng tiêu chuẩn, bố cục chung của hồ, việc chọn lựa vị trí cho mỗi loại cây cũng phải được cân nhắc cho phù hợp. Có các loại cây ưa sáng, càng nhiều ánh sáng, kể cả khi chúng mọc vươn lên đến sát đèn, chúng càng khoẻ đẹp và cho màu sắc tươi tắn. Nhưng với những loại cây cần ít ánh sáng và phát triển khá chậm như Anubias, dương xỉ…, rêu hại (algae) sẽ bám trên lá và phát triển, mau chóng phá hỏng vẻ đẹp của hồ thuỷ sinh chúng ta. Với những loại cây này, chúng ta nên đặt chúng ở những vị trí thấp, bị che khuất bởi cây hậu cảnh hoặc các loài ưa sáng, hay trong những góc khuất nơi thiấu sáng hơn. Ánh sáng khuếch tán sẽ nuôi dưỡng chúng như ngoài môi trường tự nhiên vậy.
Về nước, có những loại cây ưa nước mềm và số khác lại thích nước cứng. Tuỳ vào điều kiện nước của chúng ta có, nên chọn những loại cây thích hợp khi trồng. Nhiết độ cũng khá quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của từng loại cây. Khi lựa chọn cây cũng nên tìm hiểu để môi trường chung của hồ tương thích với chúng.
5. Chăm sóc
Rất quan trọng! Thử hỏi mỗi tuần bạn có thể dành bao nhiêu thời gian cho những cây thuỷ sinh bạn đang trồng? Nếu có nhiều thời gian thì không sao, còn nếu điều kiện thời gian của bạn bị hạn chế, bạn nên ưu tiên những loại cây phát triển chậm và ít đòi hỏi đến công chăm sóc, bớt đi những cây thân đốt (phát triển nhanh). Để giảm thời gian chăm sóc cây, việc lựa chọn những loại cây mà bạn đã nắm rõ đặc tính sinh trưởng của chúng ảnh hưởng rất nhiều đến bố cục của bạn. Với một hồ thông thường trồng nhiều cây cắt cắm, mỗi tuần, chúng ta sẽ phải mất nhiều giờ để cắt tỉa và sắp đặt, điều chỉnh bố cục. Khi cây đang trên đà phát triển sung mãn, mỗi tuần ít nhất bạn phải cắt tỉa chúng một lần. Nếu không đủ thời gian, hãy chọn cho mình những cây phát triển chậm hơn khi tạo bố cục.
6. Tận hưởng thành quả
Không gì hơn ngoài mục đích được ngắm nhìn và tận hưởng vẻ đẹp của hồ thuỷ sinh mang lại cho chúng ta. Có rất nhiều những lọai cây, mỗi trong số chúng có nét đẹp riêng. Có loại cây tôi rất thích nhưng có thể bạn thì không.
Vì vậy, tự mình hãy chọn cho mình những loại cây mà bạn yêu thích, cân nhắc về hình thái, kích thước, màu sắc khi tạo bố cục. Số lượng cây thuỷ sinh có lẽ đủ cho bạn chọn lựa những thay thế về mức độ tương đồng khi bạn đã ý tưởng về bố cục. Việc còn lại là chọn và tìm cách để sở hữu được chúng mà thôi.
Trong số báo trước, tôi đã trình bày phương pháp trồng cấy các lọai cây thủy sinh. Cây thủy sinh lên tốt khi nền, lọc, ánh sáng & CO2 phối hợp hài hòa tạo ra môi trường lý tưởng cho sự phát triển của chúng. Tuy nhiên, nếu không theo dõi, cây thủy sinh sẽ mọc quá cao và bố cục trở nên kém hấp dẫn. Vì các lọai cây thân đốt và các lọai cây ưa nắng khác phát triển rất nhanh, việc cắt tỉa duy trì chúng ở kích thước mong muốn quan trọng lắm đấy. Nhờ cắt tỉa, những cây thân đốt sẽ nẩy nhiều nhánh, thân, lá mọc ken dầy. Cắt tỉa đều đặn sẽ mang lại vẻ đẹp rậm rạp cho những bụi cây thân đốt. Tốt nhất là cắt tỉa cây thủy sinh với kéo chuyên dụng. Lọai chuyên dụng cho cây thủy sinh có phần lưỡi sắc và phần thân & cán dài. Phần lưỡi bén tạo những vết cắt ngọt không làm dập những tế bào cây ngay bề mặt vết cắt, giúp giảm thiểu tổn thương cho cây thủy sinh khi cắt tỉa, còn phần thân và cán dài giúp bạn có thể thò kéo đến những góc hay chỗ khó vói đến của bố cục. Kéo để cắt tỉa rất tiện dụng cho việc tỉa tót, tạo hình cho những bụi cây thân đốt.
Lâu lâu cũng cần cắt tỉa đối với các lọai TCN, Riccia và NMC. Mấy lọai này đều có thân ngắn và cần tỉa sát xuống mặt nền. Vì vậy rất khó tỉa chúng sát mặt nền cả một vạt với kéo có lưỡi thẳng. Để tỉa những lọai cây này, tôi dùng mấy cái kéo có lưỡi cong lượn, có nhiều kích cỡ khác nhau tùy theo từng lọai cây thủy sinh dạng này và tùy theo khu vực cần tỉa. Nếu chưa quen, tôi khuyên bạn nên dùng lọai kéo tỉa cơ bản trước. Sau đó, bạn có thể bổ sung thêm mấy cái kéo tỉa lưỡi cong lượn vào bộ sưu tập kéo tỉa cây của bạn khi thấy cần. Sự bổ sung này sẽ tạo thuận tiện hơn cho bạn khi thao tác và hòan thiện.
Nếu đã có đầy đủ dụng cụ, nào chúng ta cùng tỉa cây nhé ! Lần tỉa đầu tiên cho cây thân đốt là khi chúng đã phát triển đến một mức nào đó. Cây thân đốt mọc rất nhanh. Nếu không theo dõi, những ngọn của chúng sẽ mau chóng vươn đến mặt nước và cây thủy sinh sẽ bắt đầu lả ngọn, mọc dập dềnh trên mặt nước. Tôi khuyên bạn nên tỉa chúng sớm hơn, trước khi chúng ở tình trang như thế, bởi vì phần gốc bên dưới của chúng khi đó thiếu sáng sẽ mất lá (tuột lá), mất rễ (thóai hóa) và trở nên xấu xí, khó coi. Để che dấu, khắc phục điều đó, người ta thường trồng Cryptocoryne và các lọai cây thủy sinh khác, hoặc xếp đặt gỗ lũa tại khu vực trung cảnh trong hồ Nature Aquarium.
Mặc dù còn tùy theo bố cục, bạn vẫn nên tỉa lần đầu theo những đừờng nét của vật liệu chính trong bố cục như lũa chẳng hạn (cũng có thể là đá), để tạo hướng cho những lần cắt tỉa sau. Thường thì, nhiều ngọn sẽ mọc từ thân sau khi cắt tỉa từ một đến hai tuần. Lợi dụng đặc điểm này, ta sẽ tỉa cây ở lần thứ 2 và những lần sau nữa ở vị trí cao hơn lần tỉa trước. việc này sẽ khiến cây tạo nhiều nhánh mới giúp thân, lá của chúng trở nên um tùm hơn.
Khi bạn tỉa cây thân đốt, việc tạo hình cho cả bụi cây cũng rất quan trọng. Tiên liệu trước sự phát triển của chúng, bạn hãy tỉa sao cho chúng mọc thành bụi đẹp trong vòng 2 đến 3 tuần. Đôi khi cũng có vài ngọn mọc vượt trội trước khi những ngọn còn lại trong bụi cây kịp phát triển, hãy cắt bỏ chúng ngay lập tức.
Ngòai các lọai cây thân đốt, cũng còn rất nhiều lọai cây thủy sinh khác được sử dụng trong bố cục hồ. Những lọai cây này cũng cần được cắt tỉa cùng lúc để giữ cho sự phát triển của chúng đựơc hài hòa trong tổng thể. Trước tiên, Trân Châu Nhật (Glossostigma) và Riccia cần phải tỉa mỏng sát xuốn nền càng nhiều càng tốt, nếu không chúng sẽ mọc thành thảm dầy và sẽ lấn át khác khu vực khác trong bố cục. Như đã nói từ phần trước, tôi tỉa bằng kéo có lưỡi cong lượn.
Cũng cần phảI tỉa rêu willow moss bám trên gỗ lũa. Nếu để chúng phát triển tự do, chúng sẽ phủ kín gỗ lũa khiến chúng trở nên bờm xờm, rối rắm, phá hỏng sự cân bằng tổng thể của bố cục. Bạn có thể tỉa bằng cách dùng tay bứt rêu willow moss đến một mức nào đó (theo ý mình), rồi dùng kéo tỉa thêm những ngọn còn lùa thùa. Nếu có dương sỉ, chẳng hạn như lọai Microsorium sp, mọc trên lũa, ta nên tỉa bỏ lá lớn thường xuyên. Lá dương sỉ sẽ từ từ nhỏ dần, và bụi dương sỉ sẽ trông đẹp hơn. Bất cứ lá nào của bất cứ cây nào gần chạm mặt kính hồ đều phải tỉa bỏ ngay, vi chúng có thể tạo ra cảm giác bức bối, ngột ngạt cho bố cục.
Trong các lọai cây thủy sinh thì họ nhà Ngưu Mao Chiên cần được cắt tỉa định kỳ. Nếu tỉa NMC ngắn xuống khỏang 1cm tính từ gốc, lá mới sẽ mọc rất nhanh và thảm NMC sẽ đẹp trở lại. Lọai cỏ Eleocharis vivipara, cùng họ với NMC, tạo cây con ở ngọn lá. Mấy cây con này phải được tỉa bỏ thường xuyên để giữ cho bố cục hồ được gọn gàng, không bị rối. Việc chăm sóc, dưỡng cây thủy sinh sau khi cắt tỉa cũng quan trọng không kém. Mặc dù, cây thân đốt rất khoẻ, chịu đựng tốt việc cắt tỉa như thế, nhưng đọan thân gần gốc lâu ngày sẽ già cỗi, thóai hóa, khiến chúng không dễ dàng phát triển nhánh mới sau nhiều lần cắt tỉa. Khi gặp trường hợp này, tôi dùng một lọai phân bón có chứa một số hormone tăng trưởng của cây để kích thích chúng phân nhánh. Nếu thân đã quá già, sắp bật gốc (rễ thóai hóa) thì tôi nhổ nguyên cây lên, cắt bỏ phần thân, gốc già và trồng lại phần thân ngọn còn khỏe. Với cách này, bạn có thể yên tâm chơi cây thủy sinh thân đốt rất dài lâu.
Để có một bố cục hồ Nature Aquarium đẹp thì việc cắt tỉa và chăm sóc đúng cách là điều tối cần thiết đối với các lọai cây thân đốt, cũng như các lọai dương sỉ ở trung cảnh, và cả cây thấp, rêu moss tạo thảm.